Theo khoản 5, Điều 10, Luật hôn nhân và gia đình (Luật HN&GĐ) năm 2000 (đã hết hiệu lực), việc kết hôn giữa những người cùng giới tính là hành vi bị cấm. Người thực hiện hành vi có thể bị phạt tiền từ 100.000 đến 500.000 đồng theo điểm e, khoản 1, Điều 8, ꩵNghị định 87/2001 của Chính phủ.
Hiện nay, căn cứ vꦰào khoản 2, Điều 8, Luật HN&GĐ 2014 (đang có hiệu lực) quy định, Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính. Do vậy, những người cùng giới không thể thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn. Tuy nhiên, theo Nghị định 82/2020 của Chính phủ đang có hiệu lực, những người đồng giới kết hôn với nhau không còn bị phạt.
Như vậy, so với quy định trước, Nhà nước không còn cấm những người có cùng giới tính kết hôn mà chỉ "không thừa nhận" mối quan hꦑệ hôn nhân này. Tức là, những người đồng tính có thể tổ chức đám cưới, sống chung với nhau như vợ chồng nhưng không được thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn tại ♍cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Khi đó, hôn nhân giữa hai 𝓀người có cùng giới tính sẽ không tồn ജtại và không được pháp luật thừa nhận nên không phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ, chồng; cấp dưỡng; thừa kế; tài sản chung vợ chồng...
Câu 2: Người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì vẫn được kết hôn.