Người đàn ông 55 tuổi được chẩn đoán mắc Parkinson từ năm 2006. Triệu chứng khởi đầu là run vùng ngọn chi, chủ yếu tay phải, kèm theo có cứng các cơ nửa người phải, nói khó, vi❀🧔ết khó.
Ban đầu ông được điều trị bằng thuốc uống. Năm 2007, các triệu chứng nặng dần lên với các biểu hiện run, cứng từ chi ưu thế bên phải, nói khó, viết khó, đi lại khó khăn kèm theo tiểu khó, hay vã mồ hôi, táo bón. Cứ sau khi sử🙈 dụng thuốc khoảng 30 phút đến một giờ, ông loạn động, x🔜oắn vặn.
Trong tâm trạng rất chán nản, bi quan, bệnh nhân đến khám tại Bệnh vi🧸ện Hữu Nghị Việt Đức, Hà Nội, vào đầu tháng 4. Sau khi khám sàng lọc và🐎 làm các test đánh giá về thần kinh, tâm lý, bác sĩ hội chẩn quyết định phẫu thuật đặt điện cực vào vùng dưới đồi ở hai bên.
Đường mổ dựa trên hình ảnh chụp cắt lớp và♋ cộng hưởng từ, gắn với một khung định vị để xác định chính xác vị trí đặt điện cực với sai số vài milimét. Người bệnh được khoan 2 lỗ trên sọ và luồn điện cực vào vị trí được xác định ban đầu. Hầu hết quá trình phẫu thuật bệnh nhân vẫn tỉnh và các bác sĩ nội thần kinh thăm khám đánh giá sự cải thiện của triệu chứng cũng như tác dụng phụ xảy ra do quá trình đặt điện cực để điều chỉnh vị trí điện cực🌃.
Sau khi đặt điện cực bên trái, bệnh nhân tiếp tục được đặt điện cực bê🐻n phải với quy trình tương tự và nối𝄹 dây điện cực ra pin đặt dưới da ngực phải. Toàn bộ quá trình phẫu thuật từ lúc gắn khung định vị đến khi kết thúc phẫu thuật kéo dài 7-8 giờ.
Bệnh nhâ♎n nằm viện 3-4 ngày để theo dõi các biến chứngꦐ chảy máu, nhiễm trùng. Xuất viện, trong những tuần đầu bệnh nhân tái khám định kỳ hàng tuần để các bác sĩ chuyên khoa nội thần kinh điều chỉnh cường độ và vị trí phát xung thích hợp, sử dụng thuốc hợp lý.
3 tuần sau khi phẫu thuật được duy trì dùng thuốc và điều chỉnh cường độ kích thích phù hợp, bệnh nhân đã có thể đi lại, tự phục vụ bản thân. Các biểu hiện như loạn động đã được kiểm soát, các t🅰riệu ch♕ứng như cứng cơ được cải thiện 80-90%, triệu chứng run được cải thiện 70%.
Ca phẫu thuật đặt điện cực kích thích não sâu đầu tiên tại෴ khu vực phía Bắc tiến hành tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức được đánh giá là thành công, mở ra cơ hội cho những bệnh nhân Parkinson nặng đáp ứng kém với🍌 thuốc và có điều kiện kinh tế phù hợp.
Tiến sĩ Nguyễn Anh Tuấn, Trưởng꧑ Khoa Nội - Hồi sức Thần kinh, Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức, cho biết Parkinson là bệnh lý thoái hóa thần kinh và tiến triển từ từ, nặng dần theo thời gian. Bệnh có biểu hiện lâm sàng là triệu chứng vận động gồm run và co cứng cơ, chậm chạp, mất ổn định về tư thế, bệnh nhân đi lại dễ bị 🌃ngã.
Triệu chứng ngoài vận động liên quan đến trầm cảm, tiêu hóa, rối loạn thần kinh t🦹hực vật... Bệnh nhân ở giai đoạn sớm thường có biểu hiện run ở phần ngọn chi và miệng, kèm theo co cứng các cơ, động tác chậm chạp dẫn đến hạn chế vận động. Ở những giai đoạn sau, triệu chứng nặng dần lên, run và cứng cơ nhiều hơn khiến bệnh nhân bị mất ổn định về tư thế, dễ bị ngã khi đi lại, ngay những động tác đơn giản như cài khuy áo, tự mặc quần áo cũng không thể t🧸ự làm được. Người bệnh Parkinson còn hay gặp các triệu chứng ngoài vận động như tiểu đêm, táo bón, trầm cảm...
Điều trị cho bệnh nhân Parkinson chủ yếu là dùng thuốc. Giai đoạn đầu, được gọi là "thời kỳ trăng mật" (thường 4-5 năm từ khi khởi phát bệnh), dùng thuốc khá hiệu quả. Những giai đoạn sau, đáp ứng với thuốc ngày càng kꦐém dần, bệnh nhân có xu hướng phải tăng liều điều trị và đây cũng là giai đoạn xuất hiện nhiều biến chứng doꦬ việc sử dụng thuốc.
Kỹ thuật "kích thích não sâu" là một trong những kỹ thuật hiện đại nhất điều trị bệnh Parkinson và một số các rối loạn vận động khác. Các nước châu Âu và Mỹ khuyến cáo sử dụng kỹ thuật này để điều trị bệnh nhân Parkinson ở giai đoạn đáp ứng kém với thuốc, thường tối thiểu 5 năm kể từ khi được chẩn đoán. Giá thành điều trị ở Việt Nam cũn🀅g giảm nhiề♚u, chỉ khoảng hơn 30.000 USD (bằng 1/3 so với nước ngoài).
Phẫu thuật kích thích não sâu là phương pháp phẫu thuật sọ não nhằm đưa một que kim loại (còn gọi điện cực) vào đúng các cấu trúc sâu trong não. Sau đó, điệnꦗ cực được nối với một dây dẫജn ra khỏi não, luồn dưới da từ vùng đầu đến vùng trước ngực rồi gắn vào máy tạo nhịp được đặt ở đó. Tuổi thọ pin trung bình khoảng 5 năm tùy thuộc vào cường độ điện sử dụng cao hay thấp. Giống như máy tạo nhịp tim, khi được kích thích, dòng điện sẽ theo dây dẫn vào điện cực, từ đó tác động vào nhân não giúp cải thiện triệu chứng cho người bệnh.