Năm 1945, theo tiếng gọi của tổ quốc, cậu học sinh trường Bưởi (Hà Nội) Nguyễn Việt gia nhập du kích. Chinh chiến gan dạ trong nhiều trận đánh ở Bắc Giang, Hải Dương..., Việt nhanh chóng trở thành chính trị viên tiểu đoàn, được cử đi học nghiệp vụ trinh sát rồ🍃i được đề bạt Trưởng phòng trinh sát ban 2, Cục quân báo.
Từ tháng 1/1954, đơn vị của ông đã có mặt tại Đ🎐iện Biên để theo dõi động thái của quân Pháp. Ban ngày, các chiến sỹ trong đơn vị túa đi tìm hiểu địch từ đài quan sát, mật phục “bắt lưỡi” (bắt tù binh) về khai thác hoặc nghe thông tin của đối phương qua vô tuyến điện. Khi màn đêm buông xuống, họ tìm cách lọt qua hàng rào kẽm gai dày đặc mìn để trực tiếp tìm hiểu địa hình, công tác bố phòng của🥂 địch.
Khi ấy, ông Việt được giao chỉ huy 2 đại đội trinh sát. Hàng ngày, ngoài việc tổng hợp tin tức, giao anh em trinh sát thực địa, lên kế hoạch bắt và hỏi cung tù binh, với vốn tiếng Pháp kha khá của mình, ông trực tiếp ngồi nghe ngóng tình hình địch qua sóng vô🥀 tuyến.
Ông kể rằng, nhờ những lần ốp chặt tổ hợp vào tai như thế, trinh sát của ta đã nắm được 𒐪rất nhꦯiều tin tức có giá trị.
Ngày 22/1/1954, quân báo thu được tin địch đã biết kế hoạch nổ súng đánh Điện Biên Phủ vào ngày 25/1 của ta. Thông tin này khiến Đại tướng Võ Nguyên Giáp phải 2 l�💧�ần trực tiếp xuống xác minh. Ngày hôm sau, lệnh chuyển hướng đánh nhanh thắng nhanh thành đánh chắc, tiến chắc được ban ra.
Qua đài quan sát 𒉰cách đồi A1 hơn 1km, trinh sát nắm được tình hình đổ quân, số lượng máy bay lên xuống trong ngày, các điểm đóng quân của địch ở Mường Thanh, dãy đồi cao điểm phía Đông sông Nậm Rốn: A, C, D, Him Lam, Hồng Cúm… từ đó đánh dấu chính xác vị trí của quân Pháp trên bản đồ.
Trước đó ngày 24/12/1953, một tổ trinh sát Việt Minh thu được một chiếc thùng do máy bay Pháp thả xuống, bên trong chứa toàn tài liệu quý. Với 25 bản 🅠đồ tỷ lệ 1/25.000; 32 tấm không ảnh của toàn vùng lòng ch🌱ảo Điện Biên, chúng ta đã giải quyết được bài toán khó cho chiến dịch là chưa có bản đồ biên độ, địa hình chính xác.
Để tiếp cận địch an toàn, bộ đội ta thường đi dưới các giao thông hào, tuy nhiên với lính trinh sát, không phải lúc nào hoạt động trong hào cũng tốt. Những cơn mưa trắng trời ở Điện Biên khiến lối đi ấy ngập trong bùn đất. Lính trinh sát chọn cá♎ch di chuyển nhanh trên mặt đất để đến mục t🌌iêu trong thời gian ngắn nhất.
Người lính trinh sát năm xưa giờ đã tuổi 90. Ông trầm giọng bảo, đời 🌌lính trinh sát nguy hiểm và lắm gian lao. Có những lần ông nằm địch hậu ở Nà Sản (1952), phải nhiều ngày phải ăn bí đỏ thay cơm, đốt cỏ day có vị mặn ăn thay muối song vẫn thấy may vì nhịn đói triền miên khô🅘ng phải là hiếm.
Mắt ánh lên vẻ tinh nhanh, ông bảo lính trinh sát vất vả, luôn phải đi đầu đối mặt trực tiếp với kẻ địch nhưng cũng là những người giỏi xoay sở, giỏi kiếm đồ ăn, đa tài. “Tố Hữu viết: “56 ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm cơm vắt/ Máu trộn bùn non…” nhưng chúng tôi ở Điện Biên đến hơn 150 ngày mà chịu triền miên cảnh như thế thì anh em chết sớm. Thế nên dù của địch cướp về, chúng tôi dùng để lát nền hầm hay tự cắt, may t𒁃hành chăn, áo trông đẹp đẽ lắm. Dây dù thì anh em đan thành võng. Thời chiến mà được nằm võng trong hầm sạch sẽ, khang trang thì “sꦜang” quá còn gì”, ông Việt cười kể.
Ông hóm hỉnh kể về những bữa ăn sang bất ngờ khi lính trinh sát t♔hu được những thùng đồ tiếp tế mà địch thả dù xuống, trong đó chứa đầy thực phẩm, rượu, thuốc lá... Rồi những đêm anh em nằm kể chuyện cho nhau nghe chuyện nhà, chuyện tình, trêu đùa tếu táo. “Đó là những ký ức đẹp trong cuộc đời quân ngũ”, người lính già năm xưa mỉm cười nói.
1h chiều 7/5/1954, sau bao ngày đêm chiến đấu ác liệt, từ đài quan sát trên đồi A1, ông Việt thấy thấp thoáng những lá cờ trắng xuất hiện ở phí🐲a chiến hào của địch. Về chiều, cờ trắng ngày càng nhiều, địch lũ lượt kéo nhau ra hàng. “Đó là mộ🌄t buổi chiều hoàng hôn hùng vĩ. Cờ trắng rợp khắp nơi, địch đi hàng dài cả km rất trật tự”, ông Việt kể và suýt xoa mãi vì tiếc không có chiếc máy ảnh nào để chụp lại khoảnh khắc lịch sử hào hùng này của dân tộc.
Sau phút giây hào sáng kể lại chiều chiến thắng, vị trưởng phòng trinh sát bỗng chùng giọng nhớ đến người đồng đội Nguyễn Ngọc Bảo. "Anh Bảo hi sinh khi chỉ huy tổ trinh sát tại đồi A1. Anh được phong danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân nhưng đến giờ vẫn chưa tìm thấy hài cốt", ông Việt ngậm ngùi. Không buồnཧ sao được khi chính ông và đồng đội đã chôn cất, đánh dấu mộ chí của ông Bảo. Nhưng bom đạn ác liệt, 60 năm đã trôi qua là chừng ấy thời gian mọi nỗ lực tìm kiếm đều trong vô vọng. Thân xác người đồng đội anh hùng của những cựu lính trinh sát quân báo vẫn nằm đâu đó, hòa cùng đất trời, cỏ cây Điện Biên...
Sau chiến dịch Điện Biên Phủ, ông Nguyễn Việt tiếp tục phục vụ trong quân ngũ, tham gia đánh Mỹ và từng hứng mưa bom, bão đạn ở thành cổ Quảng Tri. Tới năm 1978, ông được điều về làm Cục trưởng cục điều lệnh, Bộ Tổng tham mưu. Năm 1981 ông làm Cục phó Cục khoa học quân sự. Năm 1989, ông nghỉ hưu với quân hàm Đại tá. |
Quỳnh Trang