Dấu hiệu dễ thấy của bệnh là ngứa, nóng, rát, đỏ da, có cảm giác lăn tăn ở môi, sau đó xuất hiện những mụn nước nhỏ li ti, tập trung thành từng đám trên môi hay quanh môi (đôi khi còn ở miệng, má, cằm, mũi). Những mụn này chứa đầy dịch, khi bị vỡ, dịch chảy ra ngoài làm lây bệnh. Mụn rộp ở🎉 môi không phải hiện tượng dị ứng như một số người tưởng, cũng không phải do nhiễm vi khuẩn. Bệnh gây ra bởi virus herpes simplex nhóm I (khác với herpes simplex nhóm II gây mụn rộp ở bộ phận sinh dục).
Khoảng 80% dân số có virus này nằm yên trong cơ thể nhưng chỉ khoảng 25% phát bệnh, thường xảy ra chủ yếuꦉ ở trẻ em, khi có điều kiện thuận lợi. Mỗi đợt kéo dài 1- 3 tuần, có những đợt tái phát, một năm có người tái phát 1-2 lần nhưng cũng có người đến 5-6 lần.
Tùy theo điều kiện thuận lợi mà bệnh có thể ở mức độ khác nhau. Nếu sức đề kháng vốn yếu hoặc bị các bệnh làm suy giảm miễn dị🎉ch (như trẻ sơ sinh, thai phụ, ghép nội tạng, bị nhiễm HIV) thì bệnh thường nặng, tổn thương lan rộng, kéo dài, có biến chứng. Tr💖ong đa số trường hợp khác, bệnh thường nhẹ có thể tự khỏi trong vài tuần.
Các thuốc thường dùng
Thuốc kháng virus: chọn một trong ba loại acyclovir, famcyclovir, valacylovir. Trường hợp nhẹ hay nặng đều nên dùng vì thuốc làm rút ngắn th🧜ời gian, giảm tái phát, giảm mức trầm trọng của bệnh. Dùng càng sớm càng tốt, ngay khi có dấu hiệu đầu tiên (ngứa, 🦩nóng rát, đỏ...).
Dùng liều cao ngay từ đầu (ví dụ như acyclovir mỗi ngày uống 2-3 lần, mỗi lần 400 mg), mỗi đợt 5 ngày. Riên⛦g với người bệnh có nhiễm HIV, đợt dùng tối thiểu 10 ngày, nếu dùng đường uống thì thuốc duy nhất được chọn là famcyclovir. Trong trường hợp cần thiết (người bệnh không dung nạp, hoặc đứng trước nguy cơ diễn ꦏbiến xấu, kể cả trường hợp nhiễm HIV) thì có thể dùng acyclovir qua đường truyền tĩnh mạch.
Thuốc giảm đau: Đau thường không dữ dội nhưng kéo dài, gây kh☂ó chịu, nên chọn loại thuốc thông thường, ít gây tai biến.
Thuốc bôi tại chỗ: Trường hợp nặng hay nhẹ đều cần dùng. Bệnh nhẹ có khi chỉ cần dùng thuốc bôi ngoài là k𓆉hỏi. Thuốc chăm sóc tại chỗ gồm: kem kháng virus acyclovir 5% có tác dụng như loại uống nhưng mức độ thấp hơn; các thuốc chống bội nhiễm (như dung dịch povidin, dung dịch milian) làm khô nhanh các vết trợt lở và đóng vảy; kem chốnꦬg nắng bôi môi có chỉ số SPF khoảng 15; kem làm giảm đau xylocain.
Ngoài ra, cần súc miệng bằng nước muối, tắm nước ấm hay dung dịch thuốc tím pha loãng. Không nhất thiết phải dùng tất cả mà chỉ chọn loại cần thiết (ví dụ trong trường 𒉰hợp nặng đã dùng kháng virus uống hay tiêm thì không cần dùng dạng kem).
Thuốc ngăn ngừa tái phát: Chỉ dùng thuốc ngừa tái phát thường xuyên, lâu dài với những người mỗi năm tái phát từ 6 lần trở lên. Phổ biến là dùng 6-18 tháng, khi mỗi năm chỉ còn tái phát từ 2 lần trở xuống thì ngừng. Dùng một trong 3 thuốc kháng virus acyclovir, famcyclovir, valacylovir. Tuy dùng liều thấp hơn trong đợt điều trị cấp tính (bằng khoảng một🔯 nửa đến hai phần ba) nhưng vì dùng thường xuyên, lâu dài nên thuốc có tác dụng phụ (tuy không lớn) và tốn kém. Đây là điều phải cân nhắc.
Song song🦄 với việc dùng thuốc, bệnh nhân cần có chế độ dinh dưỡng tốt để làm tăng khả năng đề kháng. Tránh các loại thức ăn có hàm lượng arginin cao như dừa, đậu nành, chocolate, cà rốt... vì arginin là yếu tố cần để herpes simplex tái sinh. Tuy nhiên cần lưu ý không kiêng hoàn toàn các ꧃loại thức ăn này vì arginin cũng rất cần cho cơ thể.
(Theo Sức Khỏe & Đời Sống)