Năm 2012, bảng xếp hạng đại học thế giới của Times Higher Education (THE) chỉ có 10 đại học Trung Quốc xuất hiện. Nhưng năm 2022, Trung Quốc có 97 trường, t𒐪ඣrong tổng số hơn 1.600 trường ở gần 100 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Với bảng xếp hạng của tổ chức QS, số đại học Trung Quốc cũng tăng d♒ần. Như trong giai đoạn 2021-2024, số trường từ 51 tăng lên thꦍành 71.
Về thứ hạng, các đại học của Trung Quốꩵc tăng rõ rệt, Đại học Thanh Hoa và Bắc Kinh vươn lên mạnh mẽ nhất. 💫Hai trường này thậm chí vượt qua những tên tuổi thường xuyên góp mặt ở top đầu như Đại học Johns Hopkins, Pennsylvania, Columbia hay Cornell của Mỹ.
Như ở bảng xếp hạng THE 2024, Đại học Thanh Hoa được xếp ở vị trí 12, tăng so với vị trí 71 so ♔với 10 năm trước. Tương tự, Đại học Bắc Kinh từ vị trí 49 lên hạng 14. Tính trong top 200, Trung Quốc có 13 trường góp mặt. Mở rộng ra top 400, Trung Quốc có 30 đại diện, tăng gấp đôi so với năm 2021.
Thứ hạng các đại học thuộc nhóm C9 - nhóm tinh hoa được coi như Ivy League của Trung Quốc, trên bảng xếp hạng THE giai đoạn 2012-2024 như sau:
Đại học | 2012 | 2014 | 2016 | 2018 | 2020 | 2022 | 2024 |
Thanh Hoa | 71 | 50 | 47 | 30 | 23 | 16 | 12 |
Bắc Kinh | 49 | 45 | 42 | 27 | 24 | 16 | 14 |
Giao thông Thượng Hải | 301-350 | 301-350 | 301-350 | 188 | 157 | 84 | 43 |
Phục Đán | 226-250 | 201-225 | 201-250 | 116 | 109 | 60 | 44 |
Chiết Giang | 301-350 | 301-350 | 251-300 | 177 | 107 | 75 | 55 |
Viện Công nghệ Cáp Nhĩ Tân | 350-400 | - | 501-600 | 501-600 | 401-500 | 501-600 | 168 |
Khoa học và Công nghệ Trung Quốc | 192 | 201-225 | 201-250 | 132 | 80 | 88 | 57 |
Nam Kinh | 251-275 | 251-275 | 251-300 | 169 | 144 | 105 | 73 |
Giao thông Tây An | - | - | 501-600 | 501-600 | 501-600 | 401-500 | 251-300 |
Trên bảng xếp hạng QS 2024, các đại học Trung▨ Quốc cũng giữ thứ hạng cao. Đại học Bắc Kinh hạng 17, Thanh Hoa 25, Chiết Giang 44, Giao﷽ thông Thượng Hải 51.
Sự thăng tiến về thứ hạng của các đại học Trung Quốc được cho là do chính sách tài trợ hào phóng của chính phủ, cùng sự cam kết quốc tế hóa, cải cách giáo dục và đổi mới nghiên cứu, theo THE.
PGS.TS Mai Ngọc Anh, trường Đại học Kinh tế quốc ⛄dân, cho biết từ năm 2019, ông cùng PGS.TS Đỗ Thị Hải Hà, TS Nguyễn Đăng Núi đã nghiên cứu sự phát triển của các đại học ở Trung Quốc.
Theo nhóm nghiên cứu, kế hoạch xây dựng đ🍰ại học đẳng cấp ở Trung Quốc được chuẩn bị từ năm 1995 với ba chương trình lớn là dự án 211, dự án 985 và World Class 2.0.
Từ năm 1984 đến 1993, Chính phủ Trung Quốc đã đầu tư 910 triệu nhân dân tệ (hơn 3.100 tỷ đồng) để xây dựng 81 phòng thí nghiệm cấp quốc gia. Ngoài ra,🐼 thông qua dự án 211 năm 1995, hơn 17 tỷ nhân dân tệ được rót vào 100 đại học trọng điểm để nâng cao chất lượng.
Đến năm 1998, Trung Quốc thực hiện dự án 985. Đại học Bắc Kinh và Thanh Hoa là hai trường đầu tiên tham gia trong ba năm liên tiếp, được đầu tư khoảng 1,8 tỷ nhân dân tệ một năm. Sau đó, 7 trường khác được nhận đầu tư. Nhóm này⛦ được gọi là C9, nhận tổng cộng 14 tỷ nhân dân tệ.
Năm 20🌄00, 30 trường khác được chính phủ Trung Quốc đầu tư tổng cộng 18,9 tỷ nhân dân tệ, trong đó hai phần ba chi cho phát triển hạ tầng, trang thiết bị giảng dạy và nghiên cứu.
Đến năm 2017, Bộ Giáo dục Trung Quốc đã công bố World Class 🍷2.0 - chương trình quốc gia vư🐷ơn tới hai mục tiêu là phát triển cơ sở giáo dục đại học đẳng cấp quốc tế và đào tạo hàng đầu thế giới.
Đây l✃à cơ sở để các đại học tái cơ cấu, thu▨ hút nhân tài và nâng cao chất lượng giảng dạy, nghiên cứu.
Nhóm nghiên cứu dẫn ví dụ꧂ về Đại học Phúc Đán ở Thượng Hải. Trường này được đầu tư trọng điểm theo dự án 211 từ năm 1994, rồi dự án 985 vào năm 1999. Nhờ kinh phí đầu tư mạnh mẽ từ hai chương trình này, trường cơ cấu lại thành cơ sở đào tạo đa ngành, tăng tính quốc tế. Năm 2018, trường thu hút mới 278 nhâ﷽n sự tài năng, gồm những người đoạt giải Nobel và chuyên gia kỹ thuật. Năm 2019, Đại học Phúc Đán mở cơ sở ở Budapest (Hungary), vận hành một số trung tâm nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn ở các nước chuyên nghiên cứu về Trung Quốc, hợp tác với trường Kinh tế và Khoa học Chính trị London (Anh) và khởi động các chương trình hợp tác với trường Y Harvard (Mỹ)... Với đầu tư bài bản như vậy, cùng năm này, trường lọt top 43 (bảng QS) và top 104 (bảng THE) đại học hàng đầu thế giới.
"Nhờ nhất quán trong chính sách quốc gia cũng như có kế hoạch dài hạn và nhất quán khi đầu tư đưa các đại học trong nước tham gia xếp hạng thế giới, Trung Quốc đã xác lập các mục ti❀êu, lộ trình và đầu tư, lồng ghép hiệu quả trong nhiều chương trình đầu tư lớn", nhóm nghiên cứu của PGS Mai Ngọc Anh nhận định.
Nhiều học giả quốc tế cũng lý giải tương tự. Một số nghiên cứu đăng trên các tạp chí quốc tế uy tín nhấn mạnh các dự án trên của Trung Quốc đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của các đại học. Minh chứng rất rõ là phần lớn sản lượng nghiên cứu của Trung Quốc thuộc về các đại học trong các dự án này (khoảng 57,5% ấn phẩm Web of Science, theo Cục Thống kê Quốc gia Trung Quốc năm 2019).
Trong khi đó, nghiên cứu khoa học là tiêu chí chiếm trọng số cao nhất trong hầu hết bảng xếp hạng hiện nay. Điểm trung bình ở tiêu chí này của các đại học Trung Quốc trên bảng xếp hạng THEꦐ năm nay đã tăng 12 điểm phần trăm so với năm ngoáꦏi.
Denis Simon, chuyên gia nghiên cứu về Trung Quốc tại Đại học Duke Kunshan ở Giang Tô, đánh giá tích cực về khả năng các đại học Trung Quốc lọt vào top 10. Theo ông, sự phát triển của Trung Quốc là điểm nhấn của thế kỷ 21, nên không có gì ngạc nhiên khi hệ thống gi꧑áo dục đại học nước này tiếp tục được cải thiện.
Tuy nhiên, ông cũng cảnh ♚báo dù các đại học Trung Quốc đang rất mạnh, các trường nằm ngoài top 25 trong nước có chất lượng giảm sút rõ rệt, không như Mỹ - nơi🎃 sinh viên được thụ hưởng chất lượng giáo dục đẳng cấp thế giới ở khoảng 100 trường.
"Trung Quốc phải rất thận t💙rọng để không tạo ra hệ thống giáo dục phân nhánh, trong đó chỉ có một vài trường đại học ưu tú và phần lớn còn lại là các trường tầm trung", ông Denis bày tỏ.
Hiện, Trung Quốc có gần 2.700 đại học nhưng chỉ hơn 140 trường được hưởng các chíꦑnh sách đầu tư đặc biệt. Ông Denis cho rằng nước này nên đầu tư vào các ngành học, cơ sở hạ tầng và thư viện trên diện rộng để thu hẹp những chênh lệch như hiện tại.