Tôi mừng cho ông và các nghệ sĩ khi vẫn còn có một trung tâm của Nhà nước nhận về nuôi dưỡng. Ở đây, họ sẽ được�� chăm lo tốt hơn, có bác sĩ trực thường xuyên để theo dõi tình trạng sức kꦆhỏe.
Hầu hết nghệ sĩ ấy đang ở tuổi ngoài 80, có người đã qua tuổi 90. Sự nghiệp nghệ thuật dừng lại, đồng hành với họ trong cuộc sống hiện tại kh❀ông còn là lời ca, tiếng đàn nữ♏a mà là tuổi già, bệnh tật và nỗi cô đơn.
Các trung tâm chăm sóc người cao tuổi hay viện 𓄧dưỡng lão (nursing home) đang cần được phát triển nhiều hơn trong xã hội ngày nay. Các trung tâm như thế không chỉ dành cho ngưﷺời neo đơn như các nghệ sĩ mà còn cho những người cao tuổi khác có nhu cầu.
Với tốc độ già hóa dân số nhanh, Việt Nam đang là một trong các quốc gia có số lượng người cao tuổi chiếm tỷ lệ cao. Theo luật của Việt Nam, người cao tuổi được quy định là công dân có độ tuổi từ đủ 60 trở lên. Tổng cục Thống kê dự báo,ღ tới năm 2038, số lượng người cao tuổi của Việt Nam sẽ vào khoảng 21 triệu người, chiếm 20% dân số cả nước.
Việc gia tăng dân số già chắc chắn tạo ra những áp lực cho quốc gia trong việc thiết lꦯập các chính sách an sinh xã hội, trong đó c♋ó lĩnh vực chăm sóc người cao tuổi.
Hiện tại, các trung tâm chăm sóc người cao tuổi đang tồn tại dưới ba hình thức: Trung tâm dưỡng lão thuộc Bộ, các Sở Thương bi🐬nh xã hội do Nhà nước hỗ trợ cả về kinh🍷 phí và chính sách; trung tâm dưỡng lão tư nhân do các cá nhân, doanh nghiệp đầu tư, và trung tâm bảo trợ từ thiện của các tổ chức tôn giáo (chùa, nhà thờ) tự tổ chức và điều hành.
Các trung tâm như thế vẫn còn chưa phát triển đến mức phổ biến và chưa được đầu tư toàn diện như ở các quốc gia khác có cùng mứ𝓀c độ gia tăng già hóa bằng hoặc cao hơn Việt Nam.
Nhật Bản là một quốc gia điển hình với nhiều kinh nghiệm trong việc thiết lập chính sá💟ch xã hội tối ưu cho người cao tuổi cũng như xây dựng và quản trị cơ sở chăm sóc họ. Quốc gia "siêu già" này đang có hơn 36 triệu người người cao tuổi, chiếm xấpꦉ xỉ 30% tổng dân số.
Với tỷ lệ cao nhất thế giới đó, khá nhiều người cao tuổi Nhật Bản đã sống trong sự cô độc khi bắt đầu vào giai đoạn tuổi xế chiều. Một đồng nghiệp cũ người Nhật của tôi từng bị ám ảnh bởi một hiện tượng xã hội gọi là Kodokushi, cái chết cô độc xảy ra khá phổ biến ở quê hương cô. Kodokushi ám chỉ sự ra đi lặng lẽ của nܫhững người già cô đơn Nhật Bản trong chính ngôi nhà của mình mà không ai biết.
Để giảm bớt hiện tượng gần như mang tính khủng hoảng ấy, người Nhật chú trọng phát triển mô hình trung tâm chăm sóc▨ người cao tuổi với chất lượng cao. Họ tăng cường đào tạo và tuyển dụng đội ngũ điều dưỡng viಌên chăm sóc người già (kaigo-shoku) không chỉ ở trong nước mà từ cả nước ngoài. Việt Nam hiện có số lượng thực tập sinh theo học và làm việc ngành này nhiều nhất ở Nhật.
Trong một chuyến đi Nhật, tôi gặp một cô gái Việt Nam quê ở miền Tây đang là thực tập sinh kaigo-shoku. Hỏi về tương lai, ꧑cô bé cho biết đang ấp ủ giấc mơ lập ra một nursing home nho nhỏ ở quê🌠 hương mình khi không còn làm việc ở Nhật nữa. Điều cô lo ngại duy nhất là văn hóa người Việt dường như vẫn chưa quen lắm với việc đưa người thân của mình vào sống ở trung tâm dưỡng lão.
Tôi hiểu và đồng cảm với lo ngại của cô bé.
Hiện tại, các thành phố lớn như TP HCM, Hà Nội đã có các trung tâm dưỡng lão chất lượng cao do tư nhân đầu tư thành lập và😼 điều hành theo mô hình của những nước phát triển. Các trung tâm này thu hút một lượng đáng🐎 kể các gia đình có điều kiện kinh tế tham gia đăng ký sử dụng dịch vụ. Điều đó cho thấy đã và đang có sự thay đổi trong cách nghĩ của nhiều gia đình người Việt. Thậm chí, ngay chính những người cao tuổi cũng tự nhận thấy tiện ích mà các trung tâm đang hoạt động theo mô hình hiện đại cung cấp là phù hợp với cuộc sống của họ. Không ít người đã đề nghị gia đình đưa họ vào sống và sinh hoạt trong các trung tâm như vậy.
Nhưng qu🎶yết định đưa ông bà hay cha mẹ lớn tuổi vào một viện dưỡng lão vẫn không phải là điều dễ dàng. Truyền thống gia đình theo văn hóa phương Đông của người Việt vốn nặng chữ tình và chữ hiếu nên sẽ khó ủng hộ phương thức nuôi dưỡng người già theo xu hướng của một xã hội hiện đại.
Trở ngại thứ hai là phần lớn các trung tâm này yêu cầu chi phí cao hơn nhiều so với khả năng đáp ứng của đạ♔i đa số người dân có nhu cầu. Không phải người già nào muốn, cũng vào được viện dưỡng lão, đành phải sống chen chúc, chật vật, thậm chí trong cảnh "hòn bấc ném đi, hòn chì ném lại" với cháuꦿ con.
Không có gì tốt đẹp hơn cho người cao tuổi nếu có sự kết hợp hài hòa giữa tư tưởng truyền thống và cách sống hiện đại để tạo cho họ cuộc sống mới mà trong đó họ không còn cảm thấy cô đơn. Có điều kiện để bố mẹ, ông bà hòa nhập vào cuộc sống sinh hoạt chung của những người cùng lứa 🐲tuổi vào những ngày thường và trở về sum họp với gia đình trong ngày cuối tuần, ngày lễ Tết là một lựa chọn hay. Điều đáng trách, nếu có, là chỉ khi gia đình quá ỷ lại🤡 và dồn hết trách nhiệm cho các trung tâm dưỡng lão, phớt lờ hẳn đi vai trò và nghĩa vụ chia sẻ của chính mình. Đó mới là sự bỏ mặc, sự vô tâm đáng bị phê phán.
Vấn đề cuối cùng trong việc phát triển hệ thống chăm sóc, nuôi dưỡng người già là các nhà tạo lập nên các trung tâm💜, các viện dưỡng lão cần xây dựng một hệ thống viện phí phù hợp với mức sống của các gia đình Việt. Chất lượng và mức độ an toàn tối thiểu cũng phải được bảo đảm để tạo được niềm tin tưởng cho họ.
Khi một hệ thống hạ tầng chăm sóc người già như vậy được hoàn thiện, 🔯tôi tin nhiều người cao tuổi sẽ chọn sống vui vầy giữa cộng đồng của chính mình hơn là cô đơn và lạc lõng trong căn nhà của những đứa con bận rộn và khác biệt về các mối q🎶uan tâm.
Hà Đức Trí