Đây là chiến thắng thứ 104 trong sự nghiệp F1 của Hamilton, nhưng mới là lần đầu tiên tay đua ngư🌃ời Anh về nhất một chặng từ tháng 12/2021. Do đã chốt chia tay Mercedes cuối mùa giải, đây là lầ🌼n cuối Hamilton thi đấu cho đội đua nước Đức tại Silverstone, và anh đã khóc khi được đội nhà chúc mừng qua sóng radio.
"Chiếꦆn thắng này rất có ý nghĩa với tôi. Chưa bao giờ tôi phải khóc khi giành được chiến thắng. Tôi yêu các bạn", tay đua người Anh đáp lời. Chủ tịch Mercedes, Toto Wolff thậm chí còn mô tả chiến thắng này là "một câu chuyện cổ tích" đối với Hamilton và Mercedes.
Chiến thắng ngày 7/7 cũng giúp Hamilton có chín lần về nhất tại Silverstone, qua đó෴, thiết lập kỷ lục mới của F1 về số lần thắng chặng trên một đường đua. Kỷ lục cũ thuộc về Michael Schumacher với tám lần thắng chặng trên đường đua Magny Cours, lập năm 2006.
Mercedes bắt đầu cuộc đua với lợi thế khi hai "gà nhà" George Russell, Lewis Hamilton đều xuất phát ở hàng đầu, ngay trước một tay đua người Anh khác là Lando Norris (đội McLaren). Chi tiết này ghi dấu lần đầu trong lịch sử ba tay đua xuất phát đầu tại Grand Prix Anh đều là người bản xứ. Dù vậy, những hạt mưa xuất hiện♚ giữa cuộc đua khiến thứ tự nhóm đầu sớm bị đảo lộn, và con đường tới chiến thắng của Hamilton trải qua rất nhiều chông gai.
164.000 khán giải có mặt tại Silverstone đã được chứng kiến một chặng đua mãn nhãn. Dưới điều kiện thời tiết thuận lợi, bộ đôi Mercedes dễ dàng bảo vệ thành công hai vị trí dẫn đầu. Ở phía sau nhà ĐKVĐ Max 𓂃Verstappen nhanh chóng vượt Norris để chiếm vị trí thứ ba ngay tại vòng mở màn bằng cú vượt dễ dà🔴ng tại Turn 4.
Dù sớm chiếm được vị trí thứ ba và không bị bộ đôi McLaren kìm kẹp, Versta🧸ppen không thể hiện được tốc độ như thường thấy. Tay đua Hà Lan không những không thể bám sát hai chiếc W15 ở phía trên, mà còn dần bị McLaren đuổi kịp và tấn công. Tới vòng 15, Norris nhanh chóng đánh bại Verstappen ở góc cua Stowe. Hai vòng sau, tới lượt taꦓy đua còn lại của McLaren là Oscar Piastri vượt chiếc RB20 bằng tốc độ vượt trội trên đoạn đường thẳng.
Lúc này mưa bắt đầu rơi trên đường đua Silverstone. Mọi chuyện phức tạp hơn hẳn với các tay đua khi cường độ mưa không lớn và nhiều đoạn đường tại Silverstone vẫn khá khô ráo. Lúc này, kinh nghiệm và sự tỉnh táo của các tay đua giúp ích rất lớn. Tranh thủ lúc đồng đội Russell vẫn loay hoay thích nghi với điều kiện thi đấu thay đổi, Hamilton nhanh chóng thu hẹp khoảng cách, rồi tấn công💫 và vượt qua tại vòng 18.
Tuy nhiên, sự vượt trội của chiếc W15 hỉ kéo dài thêm ít giây. Sau đó một vài góc cua, khi chạy qua quãng đường trơn trượt, cả hai xe Mercedes đều mắc lỗi, văng khỏi đường đu🍸a tại Turn 2, vòng 19. Lúc này, ưu thế nhờ cài đặt lực nén ở mức cao của McLaren được thể hiện rõ. Norris sớm đuổi kịp, rồi vượt Russell ở Turn 4, trước khi áp sát rồi vượt tiếp Hamilton tại Turn 1 vòng 20. Piastri cũng nhanh chóng vượt bộ đôi Mercedes để chiếm vị trí thứ nhì.
Chứng kiến việc một số xe mắc lỗi và mất lái dưới mưa, Ferrari và Red Bull sớ𒊎m gọi Charles Leclerc và Sergio Perez về pit chuyển sang lốp trung gian ngay tại vòng 19. Nhưng đây là quyết định sai lầm, vì đường đua lúc này vẫn còn tương đối khô ráo. Mercedes cũng khuyến nghị Hamilton về thay lốp, nhưng tay đua người Anh tỉnh táo từ chối và phản hồi: "Chưa cần dùng lốp trung gian đâu, quãng đường khô ráo vẫn nhiều mà."
Tới giữa cuộc đua, mưa mới bắt đầu dày hơn, và các tay đua nhóm đầu thay nhau về pit. Verstappen về đầu tiên, thay sang lốp trung gian tại vòng 26 - qu🍸yết định giúp anh vươn cao sau đó. Norris, Hamilton, Russell tới vòng 27 mới về pit. Hai tay đua Mercedes phải về thay lốp cùng lúc, nên người vào p﷽it sau - Russell - chịu thiệt. McLaren quyết định cho hai tay đua thay lốp chênh nhau một vòng, nên Piastri - người vào sau - thậm chí còn tụt sâu hơn cả Russell.
Sau khi hoàn thành thay lốp lần đầu, thứ tự 🍷nhóm đầu lần lượt là Norris - Hamilton - Verstappen - Russell - Piastri. Sáu 𓂃vòng sau khi thay lốp, Russell bỏ cuộc do chiếc W15 bị trục trặc. Từ lúc này, đường đua dần khô ráo khi nắng lên. Tới vòng 38, các tay đua dần chuyển sang sử dụng lốp cho thời tiết khô ráo, và Verstappen một lần nữa phản ứng nhanh với thời tiết.
Tay đua Hà Lan cùng Hamilton về pit thay lốp cùng thời điểm, còn McLaren tỏ ra chậm chạp, thay lốp sau hai đối thủ một vòng. Verstappen chuyển sang dùng lốp cứng, trong khi Hamilton và Norris dùng lốp mềm. Việc về pit sớm giúp hai tay đua lão luyện hưởng lợi, Hamilton nhảy cóc qua Norris để lên dẫn đầu sau khi thay lốp lần cuối🔴, còn Verstappen cũng áp sát đối thủ người Anh.
Lúc này về lý thuyết, Hamilton chỉ cần dè chừng Norris. Nhưng lúc này, Verstappen, với tốc độ cao cùng bộ lốp cứng mới là đối thủ đe dọa khát vọng thắng chặng của Mercedes. Verstappen vượt Norris tại vòng 48 trên đoạn đường thẳng Hanga♈r để chiếm lên thứ nhì, và còn kém Hamilton 3 giây khi cuộc đua chỉ còn 4 vòng. Tuy nhiên, Hamilton vẫn đủ sức để không cho Verstappen áp sát. Khi đoàn đua cán đích, chiếc W14 vẫn nhanh hơn đối thủ 1,4 giây.
Kết quả cuộc đua chính Grand Prix Anh
Thứ tự |
Tay đua |
Đội |
Vị trí xuất phát |
Số lần về pit |
Fastest lap cá nhân |
Thành tích |
Điểm |
1 |
Lewis Hamilton |
Mercedes |
2 |
2 |
1 phút 29,438 giây |
1 giờ 22 phút 27,059 giây |
25 |
2 |
Max Verstappen |
Red Bull |
4 |
2 |
1:28,952 |
+1,465 giây |
18 |
3 |
Lando Norris |
McLaren |
3 |
2 |
1:29,262 |
+7,547 |
15 |
4 |
Oscar Piastri |
McLaren |
5 |
2 |
1:28,748 |
+12,429 |
12 |
5 |
Carlos Sainz Jnr |
Ferrari |
7 |
3 |
1:28,293 |
+47,318 |
11 |
6 |
Nico Hulkenberg |
Haas |
6 |
2 |
1:29,836 |
+55,722 |
8 |
7 |
Lance Stroll |
Aston Martin |
8 |
2 |
1:29,897 |
+56,569 |
6 |
8 |
Fernando Alonso |
Aston Martin |
10 |
2 |
1:29,710 |
+63,577 |
4 |
9 |
Alexander Albon |
Williams |
9 |
2 |
1:29,718 |
+68,387 |
2 |
10 |
Yuki Tsunoda |
RB |
13 |
2 |
1:30,229 |
+79,303 |
1 |
11 |
Logan Sargeant |
Williams |
12 |
2 |
1:29,972 |
+88,960 |
|
12 |
Kevin Magnussen |
Haas |
17 |
2 |
1:30,093 |
+90,153 |
|
13 |
Daniel Ricciardo |
RB |
15 |
2 |
1:30,735 |
+1 vòng |
|
14 |
Charles Leclerc |
Ferrari |
11 |
3 |
1:29,748 |
+1 vòng |
|
15 |
Valtteri Bottas |
Sauber |
16 |
2 |
1:31,277 |
+1 vòng |
|
16 |
Esteban Ocon |
Alpine |
18 |
4 |
1:30,875 |
+2 vòng |
|
17 |
Sergio Perez |
Red Bull |
20 |
4 |
1:29,707 |
+2 vòng |
|
18 |
Zhou Guanyu |
Sauber |
14 |
4 |
1:31,014 |
+2 vòng |
|
19 |
George Russell |
Mercedes |
1 |
1 |
1:31,298 |
Bỏ dở cuộc đua |
|
20 |
Pierre Gasly |
Alpine |
19 |
- |
Bỏ dở cuộc đua |
+) Fastest-lap: 1 phút 28,293 giây do Carlos Sainz Jnr (Ferrari) lập tại vòng52.
Bảng điểm tay đua sau 12 chặng
Thứ tự |
Tay đua |
Đội |
Số lần nhất chặng |
Điểm |
1 |
Max Verstappen |
Red Bull |
7 |
255 |
2 |
Lando Norris |
McLaren |
1 |
171 |
3 |
Charles Leclerc |
Ferrari |
1 |
150 |
4 |
Carlos Sainz Jnr |
Ferrari |
1 |
146 |
5 |
Oscar Piastri |
McLaren |
124 |
|
6 |
Sergio Perez |
Red Bull |
118 |
|
7 |
George Russell |
Mercedes |
1 |
111 |
8 |
Lewis Hamilton |
Mercedes |
1 |
110 |
9 |
Fernando Alonso |
Aston Martin |
45 |
|
10 |
Lance Stroll |
Aston Martin |
23 |
|
11 |
Nico Hulkenberg |
Haas |
22 |
|
12 |
Yuki Tsunoda |
RB |
20 |
|
13 |
Daniel Ricciardo |
RB |
11 |
|
14 |
Oliver Bearman |
Ferrari |
6 |
|
15 |
Pierre Gasly |
Alpine |
6 |
|
16 |
Kevin Magnussen |
Haas |
5 |
|
17 |
Alexander Albon |
Williams |
4 |
|
18 |
Esteban Ocon |
Alpine |
3 |
|
19 |
Valtteri Bottas |
Sauber |
||
20 |
Logan Sargeant |
Williams |
||
21 |
Zhou Guanyu |
Sauber |
Bảng điểm đội đua đua sau 12 chặng
Thứ tự |
Đội |
Số lần nhất chặng |
Điểm |
1 |
Red Bull |
7 |
373 |
2 |
Ferrari |
2 |
302 |
3 |
McLaren |
1 |
295 |
4 |
Mercedes |
2 |
221 |
5 |
Aston Martin |
68 |
|
6 |
RB |
31 |
|
7 |
Haas |
27 |
|
8 |
Alpine |
9 |
|
9 |
Williams |
4 |
|
10 |
Sauber |
Minh Phương