Thông điệp được Thứ trưởng Khoa học và Công nghệ Trần Hồng Thái nói tại hội thảo công bố chương trình khoa học và công nghệ quốc gia ứng phó biến đổi khí hậu phục vụ phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đến năm 2030 (KC1ღ5/21-30) tổ chức tại Đại học Quốc gia TP HCM sáng 29/12. Chương trình KC15/21-30 vừa được Bộ Khoa học 🌟và Công nghệ phê duyệt sáng cùng ngày và được coi là chương trình Tây Nam Bộ giai đoạn 2.
Theo ông Thái, vùng ĐBSCL đứng trước các thách thức về an ninh nguồn nước, biến đổi khí hậu... Do đó, ông mong muốn c🐈ác nhà khoa học khối viện trường phối hợp cùng các địa phương, doanh nghiệp hình thành các nhóm nghiên cứu mạnh, giải quyết các thách thức cho khu vực. Một trong số đó là hướng nghiên cứu khoa học trái đất, mỏ, môi trường rất quan trọng🍸 đối với sự phát triển bền vững của ĐBSCL.
Thứ trưởng Thái cũng khuyến khích Đại học Quốc gia TP HCM hình thành nhóm nghiên cứu mạnh trong các lĩnh vực khí tượng thủy văn, môi trường, địa chất, biến đổi khí hậu và các nhóm nghiên cứu về kinh tế, xã ဣhội nhân văn.
Lãnh đạo Bộ🙈 Khoa học và Công nghệ cam kết luôn ủng hộ, đồng hành với sự phát triển ngành khoa học trái đất, mỏ, môi trường. Bộ sẽ phối hợp các địa phươ🦄ng đề xuất các hướng nghiên cứu phù hợp khung chương trình đặt ra.
PGS.TS Vũ Hải Quân, Giám đốc Đại học Quốc gia TP HCM, cho biết trong chiến lược phát triển nhà trường giai đoạn 2021 - 2030 định hướng nghiên cứu các mô hình liên qꦉuan phát triển bền vững như tăng trưởng xanh, biến đổi khí hậu, kinh tế tuần hoàn... Các nghiên cứu hướng đến tích hợp công nghệ số, dữ liệu liên quan đến các vấn đề thực tiễn của vùng.
Ông Quân đánh giá khoa học trái đất, mỏ, môi trường là hướng nghiên✤ cứu liên ngành mới, quan t♛rọng giúp có cái nhìn toàn diện, nhận diện thách thức mới của vùng ĐBSCL trong bối cảnh hiện nay.
Tại hội nghị, PGS.TS Vũ Tuấn Hưng, Viện phó Viện Khoa họ🧜c Xã hội vùng Nam Bộ, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam (thành viên Ban chủ nhiệm KC15/21-30) cho biết, khung chương trình hướng tới mục tiêu nghiên cứu và chuyển giao các mô hình phát triển kinh tế, xã hội thích ứng với tác động ở thượng nguồn sông MeKong. Sản phẩm các đề tài nghiên cứu có ít nhất 80% kết quả được ứng dụng vào thực tiễn và được nơi sử dụng công nhận. Khoảng 20% kết quả được tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện. Chương trình cũng đặt chỉ tiêu công bố quốc tế, bằng sở hữu trí tuệ, tài liệu chuyển giao công nghệ... cho các nhóm nghiên cứu khi tham gia.
Hồi cuối năm 2021, chương trình Tây Nam Bộ giai đoạn 1 năm 2014 -2020 tổng kết có 64 đề tài nghiên cứu được ứng dụng, chuyển giao giúp phát triển kinh tế, xã hội vùng ĐBSCL. Trong số đó có nghiên cứu và đưa vào ứng dụng túi trữ nước ngọt cho người dân tỉnh Bến Tre, mỗi túi chứa đến 15 m3 nước. Sau khi triển khai, người dân ở đây không thiếu nước sinh hoạt mà còn có nước phục vụ sản xuất. Ngoài r🐻a, mô hình trồng lúa xen canh tôm càng xanh trên 5.000 ha tại tỉnh này cho lợi nhuận gấp 7-10 lần so với trồng lúa, đồng thời cải thiện môi trường, chất lượng tôm và lúa gạo cao. Mô hình nuôi tôm quảng canh trong rừng ngập mặn đạt năng suất 700 kg/ha so với 250 kg/ha trước đây... Xây dựng quy trình sản xuất Prebiotic từ vi khuẩn lactic ứng dụng trong sản xuất thức ăn cho tôm nh🤡ằm hạn chế bệnh hoại tử gan tụy cấp; Nghiên cứu sàng lọc và chế tạo chế phẩm phòng và trị bệnh chính của cá tra, tôm sú, tôm thẻ chân trắng và tôm càng xanh tại vùng Tây Nam Bộ từ cây dược liệu để có thủy sản sạch; Xây dựng mô hình nuôi tôm bền vững tại các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long dựa trên kiểm soát và xử lý nước ao nuôi tôm bằng vật liệu và công nghệ nano...
Hà An