Hai người đàn ông lăm lăm khẩu súng máy và súng lục lắp nòng giảm âm chĩa thẳng về phía họ, lớn giọng bảo nằm xuống. Urschel cùng bạn là Walter Jarrett bị trói và bịt miệng, rồi bị đẩy lên phía sau của chiếc Chevrolet. Chiếc xe mang the༒o hai con tin rời dinh thự trong màn đꦅêm.
Sau khi đặc vụ FBI tổ chức điều tra, Jarrett bất ngờ được trả tự do về dinh ✃thự vào lúc 1h hôm sau. Theo Jarrett, bọn bắt cóc rời hiện trường trên con đường đất song song quốc lộ 23 về hướng đông bắc. Chúng lấy giấy tờ tuỳ thân, 50 USD trong ví rồi thả Jarrett tại ngã tư. Chiếc xe chở tỷ phú tiếp tục di chuyển về phía nam.
Tới ngày 26/7/1933, J.G. Catlett, bạn thân của Urschel, nhận được gói hàng chứa nhiều bức thư. Bức thư thứ ♏nhất, Urschel yêu cầu Catlett làm trung gian cho việc chuộc con tin. Bức thứ hai, Urschel viết cho vợ, yêu cầu Catlett đến thành phố Oklahoma ngay lập tức. Lá thư thứ ba gửi cho ông E. E. Kirkpatrick với yê🐭u cầu chuyển ngay 200.000 USD, loại 20 USD trong 7 ngày nhưng không được đánh dấu hay ghi lại số seri.
Hai ngày sau, thêm một bức thư được gửi đến Kirkpatrick để hướng dẫn cách giao tiền. Lá thư yêu cầu Kirkpatrick bỏ 200.000 USD trong túi da màu sáng, mua vé tàu điện đi thành ph✱ố Kansas trên chuyến tàu khởi hành lúc 22h10'. Lên tàu ở toa sau cùng, ông quan sát bên tay phải và khi thấy có đám cháy đầu tiên hãy ném túi tiền qua đường ray ngay.
Trong trường hợp không thực hiện đượ♒c, khi vào thành phố Kansas, Kirkpatrick phải đến khách sạn đăng ký phòng dưới tên E. E. Kincaid và chờ hướng dẫn. Mọi việc phải được tiến hành trong ngày 29/7/1933, thông tin cần được giữ kín, nếu không tính mạng ông Urschel khó bảo toàn.
Mối quan tâm hàng đầu của FBI lúc🍨 bấy giờ tꦦập trung vào sự an toàn của nạn nhân nên việc xác minh nguồn gốc những lá thư ít được tập trung.
Ngay lập tức, Catlett quyết định đi cùng Kirkpatrick đến Kansas và được giao giữ túi da chứa 200.000 USD tiền mặt đã được đánh dấu số seri. Chiếc túi còn lại được nguỵ trang, bên trong✤ chứa tạp chí cũ, giao cho Kirkpatrick giữ. Hành trình xuyên đêm đến thành phố Kansas🥃 được đặc vụ FBI mặc thường phục bảo vệ nghiêm ngặt, nhưng trên đường không xuất hiện đám cháy nào.
Theo chỉ dẫn, hai người đến khách sạn nhận phòng dưới tên E. E. Kincaid và nhận được lời nhắn sẽ c🉐ó người tên C. H. Moore liên lạc sau. Khoảng 17h30 ngày 30/7/1933, Kirkpatrick nh🌊ận cuộc điện thoại yêu cầu rời khách sạn, một mình đến khách sạn LaSalle về phía tây và bí mật giao tiền cho người đàn ông lạ mặt. Kẻ nhận tiền nhanh chóng mất hút vào đám đông trước sự ngỡ ngàng của các đặc vụ.
23h30 ngày 31/7/1933, tỷ phú Urschel được thả về nhà trong t𒐪🔴ình trạng kiệt sức sau 9 ngày bị giam giữ. Lời khai đầu tiên của ông trùng khớp với Jarrett. Xe di chuyển về phía nam khoảng 90 phút thì dừng tại nơi ông ngửi được mùi xăng. Điểm dừng thứ hai có thể là nhà kho, nhóm bắt cóc chuyển Urschel sang xe 7 chỗ, bắt phải nằm ở khoang sau. Sau quãng đường dài, ông lần lượt được đưa đến hai ngôi nhà. Trong ngôi nhà thứ hai, ông bị còng và bị bịt miệng.
Hôm sau, kẻ bắt cóc quay lại thay x𒆙ích để Urschel có thể đi lại trong phòng. Chúng tra khảo tỷ phú để lấy thông tin, qua đó biết được tên người bạn thân John G. Catlett, đồng thời bắt ông viết thư.
Trong thời gian giam giữ, Urschel nghe kẻ bắt cóc kể về những lần gây án cướp vài ngân hàng. Ông không biết đang ở đâu nhưng hàng ngày từ khoảng 9h45 đến 17h45 đều nghe rõ tiếng động cơ máy bay ngang trên bầu trời. Đến 14h ngày 31/7/1933, một trong hai kẻ bắt cóc quay lại và cho biết sẽ trả tự do cho ông tại thàn𓆏h phố Norman, Oklahoma và còn cho ông 10 USD.
Quy mô cuộc điều tra được mở rộng. Chủ mưu vụ bắt cóc được xác định có thể là vợ chồng George Kelly và Kathryn Kelly. Cả hai có nhiều tiền án tiền sự, trong đó George Kelly cꦿó biệt danh Kelly "súng máy", từng thụ án tại nhà tù bang New Mexico, được biết đến như tên trùm xã hội đen khét tiếng thời bấy giờ chuyên buôn lậu, cướp ngân hàng.
Chi tiết về ngôi nhà nơi ông Urschel nghe ti💮ếng động cơ máy bay ngang trên bầu trời được FBI chú trọng. Tất cả trang trại trong bán kính hơn 960 km xung quanh thành phố Oklahoma được khoanh vùng. Hãng hàng không American Airways xác nhận có chuyến bay khởi hành hàng ngày từ Fort Worth đến Amarillo từ 9h15 và 15h30, tương ứng với thời gian Urschel nghe tiếng động cơ hàng ngà🍸y. Khu vực Paradise, Texas với nhiều trang trại và nằm cách đường băng cất cánh khoảng 10 phút bay được ghi nhận có thể là nơi giam giữ.
Trùng hợp, khu vực này có trang trại đứng tên mẹ của Kathryn Kelly. Hơn nữa, nhân chứng cho biết từng thấy vợ chồng Kelly thường xuyê♏n xuất hiện trong khoảng thời gian tỷ phú Urschel mất tích.
Lập tức, FBI tổ chức vây ráp nhà mẹ của Kathryn vào ngày 12/8/1933. Kẻ bị bắt đầu tiên là Harvey Bailey, tên tội phạm nguy hiểm vượt ngục khỏi nhà tù bang Kansas khi đang chấp hành bản án 50 năm tù. Ba kẻ bị bắt còn lại là Robert 🥀Shannon, vợ Ora Shannon, và con trai Armon Shannon.
Khám xét nơi trốn của Bailey, nhà chức trách thu khẩu súng máy và ha🍸i khẩu súng lục, cùng 1.100 USD trong đó có 700 USD có số seri trùng khớp với t♊iền chuộc Urschel.
Từ đây, ngôi nhà ông bà Shannons được xác định là nơi đầu tiên bị giam giữ. Nhà của Armon Shannons cách đó 15 phút lái xe là hiện trường giam giữ thứ hai. Giọng nói của cha con nhà Shannons được khẳng định là hai người đã canh chừng ông troꦰng suốt thời gian nhóm bắt cóc vắng mặt.
Nhóm bị bắt thừa n๊hận tội trạng, chỉ ra hai kẻ chủ mưu là George Kelly và Albert Bates. Bates bị bắt ngay sau đó với bằng chứng là 660 USD có số seriဣ trùng với tiền chuộc. Vợ chồng Kelly do lẩn trốn nên bị FBI phát lệnh truy nã đặc biệt.
Ngày 7/10/1933, Harvey Bailey, Albert Bates, Robert Shannon và Ora Shannon cùng bị kết án tù chung th🍬ân, Armon Shannon chịu án 10 năm quản chế.
Cuộc truy đuổi gắt gao về tung tích của vợ chồng Kelly được các đặc v🥀ụ FBI tiến hành khẩn trương. Trong cuộc đột kích sáng sớm 26/9/1933♉, cặp đôi bị bắt.
12/10/1933, George và Kathryn Kelly bị kết tội và bị kết án tù chung thân. Nhà chức trách thu giữ tang vật, và bắt các nghi phạm đã giúꦐp vợ chồng Kelly trốn thoát và tiêu ༒thụ phần tiền còn lại.
Vụ án được khép lại với 21 người phạm tội đã bị kết án, các bản án bao gồm sáu bản án chung thân và các ▨bản án khác, t๊ổng cộng hơn 58 năm.
Nguyên Ngọc (Theo FBI)