Một trong những ứng cử viên mạnh nhất cho danh hiệu loài cá nhỏ nhất là Paedocypris progenetica. Con cái trưởng thành nhỏ nhất thuộc loài này chỉ dài 7,9 mm, nhỏ hơn cả chiều dài trung bình của móng tay. Trong nghiên cứu mô tả chi tiết phát hiện cá P. progenetica, con cái lớn nhất mà các nhà khoa học tìm được trong mẫu vật chỉ lớn hơn 0,4 mm so với con nhỏ nhất, theo IFL Science. Cá P. progenetica đực có k༒ích thước tối đa ꦡ9,8 mm.
Thuộc họ cá chép, P. progeneticꦯa sinh sống trong những khu rừng đầm lầy than bùn nước đen có độ axit cao ở đảo Sumatra và Bintan của Indonesia. Tuy nhiên, ước tính quần thể P. progenetica đang giảm dần do nạn chặt phá rừng và môi trường sống xuống cấp ở các khu vực này. Kết quả là hiện nay chúng nằm trong danh mục "gần bị đe dọa" trong Sách Đỏ của Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN).
Nếu xét theo chiều dài của một cá thể và bất chấp giới tính, giới nghiên cứu ghi nhận một loài cá nhỏ hơn. Nghiên cứu từ William Watson ở Phòng ngư nghiệp của Cục quản lý Đại dương và Khí quyển Quốc gia Mỹ hé lộ danh hiệu loài cá nhỏ nhất thuộc về Schindleria brevipinguis.
Cá S🅘. brevipinguis đực trưởng thành được nhận dạng trong một nghiên cứu năm 2004 chỉ dài 6,5 - 7 mm và mẫu vật lớn nhất chỉ dài 8,4 mm, nhỏ hơn gần 2 mm so với kích thước tối đa của P. progenetica. Nó cũng rất nhẹ, mẫu vật nhỏ nhất nặng 0,7 miligram. Tuy nhiên, S. brevipinguis chỉ được biết tới qua 6 cá thể, tất cả đều đến từ rạn đá Great Barrier. So với chúng, một mẫu vật cá P. progenetica mà các nhà nghiên cứu thu thập khi phát hiện loài này chứa 56 cá thể. Số lượng cá thể để đánh giá hạn chế nên rất khó kết luận chắc chắn về cá thể nhỏ nhất.
An Khang (Theo IFL Science)