Nằm trên đường Duy Tân (phường An Cựu, TP Huế, Thừa Thiên💞 Huế), An Lăng có diện tích rộng gần 6 ha, bao gồm lăng vua Dục Ðứꦉc, hoàng hậu và 42 tẩm mộ ông hoàng bà chúa cùng 121 ngôi mộ đất của những người thuộc Ðệ Tứ Chánhও phái Ngu൲yễn Phước tộc.
Đây cũng là nơi an nghỉ của vua Thà♎nh Thái và vua Duy Tân, hai vị vua yêu nước bị thực dân Pháp phế truất và an tr🌜í ở nước ngoài.
Theo chính sử triều Nguyễn, vua Tự Đức (1847-1883) qua đời truyền ngôi lại cho người con nuôi là hoàng tử Nguyễn Phúc Ưng Ái, tức vua🅺 Dục Đức. Như💙ng vua Dục Đức chỉ trị vì được mấy ngày thì bị phế truất và bị quản thúc tại Thái Y Viên, sau đó chết đói ở nhà ngục Thừa Thiên để lại 8 bà vợ, 11 người con trai và 8 người con gái.
Giai thoại ở Huế lư🔯u truyền rằng, vua Dục Đức mất, vợ vua đã thuê người gánh thi hài vua từ ngục Th👍ừa Thiên mang về chùa Tường Quan để chôn cất với mong muốn ngày ngày tiếng kinh Phật sẽ siêu thoát linh hồn. Nhưng chưa đến vườn chùa, thi hài nhà vua rơi xuống gần khe cồn Phước Quả và được chôn cất tạm bợ tại đây. Mấy hôm sau triều đình nh🎃à Nguyễn 🐠mới cho người vợ chính là bà Từ Minh được phép lên thăm mộ và làm lễ chịu tang ở chùa Tường Quang.
Vào năm 1889, con trai của vua Dục Đức là Nguyễn Phúc Bửu Lân được đưa lên ngôi vua, lấy niên hiệu Thành Thái. Sau đó, vua Thành Thái cho xây lăng mộ của cha đàng🌸 hoàng và đặt tên là An Lăng. Nơi thờ thì ở chùa Tường Quang cách 200 mét.
Đến tháng 7 năm Thành Thái thứ 11 (8/1899), nhà vua cho xây dựng điện Long Ân gần khu vực lăng mộ vua Dục Đức để thờ cha. Trong khuôn viên này có xây dựng thêm một số nhà cửa dành cho 7 bà vợ thứ của vua Dục Đức ăn ở để lo hương khói phụng thờ. Năm 1906, bà Từ Minh tạ thế, triều đình cho quy hoạch lại khu vực lăng mộ vua Dục Đức, làm thành một khu lăng kép, xây mộ bà gần mộ ôn𝓰g theo kiểu "song táng".
Cuối năm 1945, vua Duy Tân tử nạn máy bay ở châu Phi, một cuộc lễ truy điệu nhà vua được tổ chức tại điện L෴ong Ân và thờ tạiꦏ đây.
Đến năm 1ꦡ954, khi vua Thành Thái mất, thi hài được đưa về chôn cất trong khu vực An Lăng và cũng được thờ ở điện Long Ân. Năm 1987, hài cốt vua Duy Tân đư♊ợc đưa về an táng cạnh lăng vua cha Thành Thái.
Gần hai bên lăng vua Thành Thái và Duy Tân cò𝔍n có lăng mộ của 3 bà vợ vua Thành Thái và năm 1994, hài cốt bà Mai Thị Vàng (mất năm 1980), vợ vua Duy Tân được đưa về chôn gần lăng mộ của vua.
Lăng vua Thành Thái và vua Duy Tân nhỏ gọn, nằm ngay mặt tiền đường Duy Tân, trong khi đó lăng tẩm vua 🍌Dục Đức đã xuống cấp nặng nề. Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế, đơn vị quản lý An Lăng phải dùng các thanh sắt để gia cố tạm bợ.
Hiện bài vị vua Dục Đức, Thành Thái, Duy Tân đang được thờ trong khu vực điện Long Ân. Hàng năm, dòng Nguyễn Phúc tộc thường tổ chức n𝕴gày giỗ cho các vị vua ngay trong khu vực lăng.
Trải qua thăng trầm của lịch sử, mộtꦚ phần khu vực An Lăng đã bị người dân lấn chiếm làm nhà✃ cửa sinh sống.
𝔉 Vua Dục Đức (23/2/1852 - 6/10/1883) là vị vua thứ năm của triều đại nhà Nguyễn và là cha của vua Thành Thái🔜, ông nội vua Duy Tân. Vua Thành Thái (14/3/1879 🌊- 24/3♛/1954) là vị vua thứ 10, tại vị từ 1889 - 1907. Vua Duy Tân (19/9/1900 - 26/12/1945), tên là Nguyễn Phúc Vĩnh San, vị vua thứ 11 của nhà Nguyễn, ở trên ngai vàng từ 1907 - 1916. 🐻Khi cuộc khởi nghĩ♊a Duy Tân thất bại, nhà vua bị thực dân Pháp đưa đi an trí ở Châu Phi. |
Võ Thạnh