Đây là chiến thắng thứ hai của Ferrari sau ba chặng đã qua của mùa giải. Xuất phát đầu, lập f🦋astest-lap, dẫn đầu trọn vẹn 58 vòng đua, Leclerc hoàn toàn kiểm soát đoàn đua, trong 💮khi kình địch đến từ Red Bull Max Verstappen một lần nữa phải bỏ cuộc vì sự cố với hệ thống dẫn nhiên liệu. Khoảng cách giữa hai tay đua giờ là 46 điểm.
Vị thế dẫn đầu nhờ việc giành pole của Leclerc t♋ưởng chừng liên tiếp bị đe dọa bởi xe an toàn. Nhưng Verstappen không đủ sức t꧙ấn công tay đua của Ferrari. Lần đầu, đồng đội Carlos Sainz của Leclerc khiến xe an toàn sớm xuất hiện do mất lái chiếc F1-75 khi cố gắng vượt lên ở Turn 9. Khi cuộc đua tiếp tục trở lại, Leclerc dễ dàng bứt xa khỏi Verstappen, rồi sớm nâng cao khoảng cách khi tay đua Red Bull bắt đầu gặp vấn đề về lốp.
Lần thứ hai xe an toàn xuất hiện là do Sebastian Vettel gặp nạn, và ꩵVerstappen được trao thêm một cơ hội. Leclerc, người trước đó không lâu về pit để thay lốp mới, vất vả duy trì độ bám đường với bộ lốp mới khi đoàn đua xuất phát lại. Verstappen cố gắng tấn công chiếc F1-75 tại góc cua đầu, nhưng tay đua của Ferrari vẫn phòng thủ thành công, rồi sau đó sớm tạo ra khoảng cách tầm nửa giây mỗi vòng trước khi chiếc xe Verstappen gặp sự cố kỹ thuật.
Lúc Leclerc dẫn trước hơn 7 giây - cách biệt anh tạo nên sau khoảng 11 vòng từ khi xe an toàn rời khỏi đường đua, Verstappen phàn nàn rằng 🔥anh có thể "ngửi thấy mùi chất lỏng kỳ lạ nào đó". Red Bull vì thế yêu cầu tay đua Hà Lan bỏ cuộc để đảm bảo an toàn. Sự cố mới nhất này một lần nữa làm dấy lên sự nghi ngờ về độ ổn định của chiếc xe RB18.
Tại chặng mở màn, cả hai xe của Red Bull đều phải bỏ cuộc trong những vòng đua cuối cùng vì các vấn đề về hệ thống nhiên liệu. Verstappen vì thế mất vị trí thứ hai sau Leclerc. V🍌à tại Melbourne ngày 10/ꦏ4, Verstappen lại mất một lượng lớn điểm khác. Lãnh đội Red Bull Christian Horner nghĩ rằng sự cố có thể là do "rò rỉ nhiên liệu", nhưng họ cần phải điều tra chiếc xe để chắc chắn.
"Chúng tôi không thể chấp nhận việc bỏ cuộc", Horner nói. "Chúng tôi dự kiến sẽ tiến gần hơn rất nhiều với Ferrariꦰ về ꧟tốc độ, dù họ vẫn chưa thể bị đuổi kịp ngày hôm nay. Rõ ràng là chúng tôi có một số việc phải làm. Chúng tôi cần làm rõ chính xác điều gì đã gây ra sự cố ngày hôm nay".
Trái ngược với sự mất ổn định của Red Bull, Mercedes, dù không có chiếc xe mạnh mẽ ở giai đoạn đầu mùa, đang cho thấy 🉐sự tiến bộ với một chiếc xe đáng tin cậy. Lewis Hamilton xuất phát tốt và vọt lên thứ ba trước Sergio Perez ở Turn 1 và cầm chân tay đua người Mexico trong 10 vòng trước khi không gặp may với tình huống xe an toàn xuất hiện do tai nạn của Vettel.
Ha💯milton về pit ngay trước khi xe an toàn được triển khai, trong khi Russellhưởng lợi từ việc thay lốp trong thời gian xe an toàn xuất hiện và vượt tay đua đànꦺ anh. Hamilton nỗ lực áp sát Russell vào cuối cuộc đua, nhưng vẫn không thể vượt qua đồng đội. Dù vậy, việc Russel lần đầu lên podium dưới màu áo Mercedes giúp đội đua nước Đức tiếp tục đứng trên Red Bull ở bảng tổng sắp tập thể.
Kết quả Grand Prix Australia
Thứ tự |
Tay đua |
Đội |
Vị trí xuất phát |
Số lần thay lốp |
Fastest lap cá nhân |
Thành tích |
Điểm |
1 |
Charles Leclerc |
Ferrari |
1 |
1 |
1:20,260 |
1 giờ 27 phút 46,548 giây |
26 |
2 |
Sergio Perez |
Red Bull |
3 |
1 |
1:21,094 |
+20,524 giây |
18 |
3 |
George Russell |
Mercedes |
6 |
1 |
1:21,495 |
+25,593 |
15 |
4 |
Lewis Hamilton |
Mercedes |
5 |
1 |
1:21,886 |
+28,543 |
12 |
5 |
Lando Norris |
McLaren |
4 |
1 |
1:22,248 |
+53,303 |
10 |
6 |
Daniel Ricciardo |
McLaren |
7 |
1 |
1:22,451 |
+53,737 |
8 |
7 |
Esteban Ocon |
Alpine |
8 |
1 |
1:22,469 |
+61,683 |
6 |
8 |
Valtteri Bottas |
Alfa Romeo |
12 |
1 |
1:21,651 |
+68,439 |
5 |
9 |
Pierre Gasly |
AlphaTauri |
11 |
1 |
1:22,731 |
+76,221 |
2 |
10 |
Alexander Albon |
Williams |
20 |
1 |
1:22,589 |
+79,382 |
1 |
11 |
Guanyu Zhou |
Alfa Romeo |
14 |
1 |
1:22,541 |
+81,695 |
|
12 |
Lance Stroll |
Aston Martin |
19 |
3 |
1:23,592 |
+88,598 |
|
13 |
Mick Schumacher |
Haas |
15 |
1 |
1:23,006 |
+1 vòng |
|
14 |
Kevin Magnussen |
Haas |
16 |
1 |
1:23,071 |
+1 vòng |
|
15 |
Yuki Tsunoda |
AlphaTauri |
13 |
1 |
1:23,342 |
+1 vòng |
|
16 |
Nicholas Latifi |
Williams |
18 |
2 |
1:23,882 |
+1 vòng |
|
17 |
Fernando Alonso |
Alpine |
10 |
2 |
1:20,846 |
+1 vòng |
|
18 |
Max Verstappen |
Red Bull |
2 |
1 |
1:21,677 |
Bỏ dở cuộc đua |
|
19 |
Sebastian Vettel |
Aston Martin |
17 |
1:25,189 |
Bỏ dở cuộc đua |
||
20 |
Carlos Sainz Jnr |
Ferrari |
9 |
- |
Bỏ dở cuộc đua |
+) Fastest-lap: 1 phút 20,260 giây do Charles Leclerc (Ferrari) lập tại vòng 58.
Minh Phương