Chính phủ đề xuất tăng hơn 20.000 tỷ đồng vốn điều lệ cho Vietcombank - một trong bốn nhà băng quốc doanh - nhằm đáp ứng các tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, hỗ trợ tái cơ cấu tổ chức tín dụng yếu kém. Nguồn tăng từ l🦩ợi nhuận còn lại lũy kế đến hết năm 2018 và lãi còn lại năm 2021 của ngân hàng.
Nửa thập kỷ gần đây, bảng xếp hạng quy mô vốn của các nhà băng có sự xáo trộn mạnh. Khối ngân hàng quốc doanh, vốn chiếm vị thế dẫn ♍đầu về tổng tài sả🥀n, quy mô cho vay và vốn trong hai thập kỷ trước đó, bị nhóm tư nhân dần vượt qua.
Năm 2018, lần đầu tiên một nhà băng tư nhân chꦗen chân trong top 3 quy mô vốn điều lệ ngành ngân hàng. Quý II năm nay, sau hơn 5 năm, hai vị trí dẫn đầu t🐼huộc hoàn toàn về nhóm này, với VPBank và Techcombank đạt quy mô vốn lần lượt hơn 79.300 tỷ và hơn 70.400 tỷ đồng. Mức này cao hơn 20.000 tỷ so với BIDV -ngân hàng quốc doanh ở top 3.
Câu chuyện tăng vốn của nhóm quốc doanh được nhắc tới từ nhiều năm gần đây, nhưng chưa có lời giải thỏa đáng. Việc tăng vốn điều lệ thường bằng 3 cách chính, là phát hành 🗹cổ phiếu cho cổ đông hiện hữu, phát hành riêng lẻ hoặc chia cổ tức. Nhưng với các ngân hàng quốc doanh, các cách này đều vướng. Sự khác biệt so với phần còn lại là sở hữu Nhà nước cần giữ ở mức tối thiểu 65%.
Phát h🌸ành cho cổ đông hiện hữu buộc các cổ đông phải mua thêm lượng cổ phiếu theo tỷ lệ🧔 nắm giữ. Nếu quy mô vốn tăng thêm hàng chục nghìn tỷ đồng, Nhà nước cần đóng thêm phần vốn tương ứng để giữ tỷ lệ sở hữu. Tuy nhiên, rào cản ngân sách khiến việc này không dễ thực hiện. Nếu không tham gia, sở hữu Nhà nước sẽ giảm.
Việc chia cổ tức bằng cổ phiếu cũng tương tự. Các ngân hàng quốc doanh, vốn được xem là "bầu sữa" của ngân sách, chịu áp lực chia cổ tức bằng tiền. Trong 7-8 năm qua, chỉ có hai đợt nhóm này được tăng vốn điều lệ bằng chia cổ tức cổ phiếu, là năm 2021 và 2023, các năm còn lại hầu hết chia cổ tức bằng tiền mặt. Giai đoạn 2016-2018, các ngân hàng đều mong muốn tăng vốn điều lệ thông qua chia cổ tức bằng cổ phiếu. Tuy nhiên, đề nghị này bị Bộ Tài chính khước từ với lý do ngân sách eo hẹp.
Ở phương án phát hành riêng lẻ, trong nhóm quốc doanh, VietinBank không thể thực hiện khi sở hữu Nhà nước là 64,46% - chạm m🐻ức tối thiểu theo quy định (65%). Vietcombank và BIDV vẫn còn dư địa khi Nhà nước nắm lần lượt 74꧃,8% và 80,99%. Nhưng nhiều năm nay, cả hai ngân hàng này đều "giậm chân tại chỗ".
Vietcombank đề cập tới việc phát hành riêng lẻ cho cổ đông chiến lược từ 2019, nhưng đến nay chưa được thực hiện. BꦬIDV nhắc tới phương án này từ cách đây hai năm, song tiếp tục bị hoãn. Nhóm phân tích của Công ty chứng khoán MB (MBS) cho rằng trong năm 🦋nay, những phương án tăng vốn này vẫn chưa thể thực hiện. Lãnh đạo Vietcombank từng cho biết, vướng mắc còn nằm ở vấn đề đàm phán giá. Giá phát hành không thấp hơn trị trường và định giá, và cổ đông chiến lược khi mua sẽ chịu điều khoản hạn chế chuyển nhượng trong một năm.
So với nhóm quốc doanh, các nhà băng tư nhân có phần dễ dàng hơn trong câu chuyện tăng vốn. Việc tăng vốn của nhóm này cꦜhỉ cần sự đồng thuận của cổ đông và đáp ứng các quy định về giới hạn sở hữu. Như trường hợp VPBank, ngân hàng này chỉ mất hơn hai năm để vươn thành nhà băng đứng đầu quy mô vốn điều lệ. Cuối năm 2022, VPBank phát hành cổ phiếu cho cổ đông từ nguồn lợi nhuận chưa chia và các quỹ với tỷ lệ 50%, tăng vốn thêm hơn 22.000 tỷ đồng. Một năm sau đó, nhà băng này phát hành gầ🌳n 1,2 tỷ cổ phiếu cho cổ đông chiến lược Sumitomo, tăng tiếp vốn thêm gần 12.000 tỷ đồng.
Tương tự, Techcombank, với "truyền thống" không trả cổ tức để dồn cho các đợt tăng vốn lớn, vừa hoဣàn tất việc nâng vốn lên gấp đôi từ 35.200 tỷ lên hơn 70.000 tỷ đ♚ồng trong một đợt.
Thực tế, với ngân hàng, quy mô vốn điều lệ được xem là "tấm đệm dự phòng rủi ro". Đây là cấu phần đánh giá mộ🧜t số chỉ tiêu về an toàn hoạt động. Không tăng vốn, trong khi tín dụng mở rộng liên tục, khiến một số chỉ tiêu an toàn của nhóm quốc doanh ở mức thấp, đặc biệt là tỷ lệ an toàn vốn (CAR).
Hệ số CAR được tính theo Thông tư 41 năm 2016 tiếp cận chuẩn mực Basel II, tối thiểu là 8%. Theo đề ൲án cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu đến 2025, CAR mục tiêu năm 2023 của các ngân hàng thương mại tối thiểu là 10-11%, tỷ lệ này là 11-12% vào 2025. Tuy nhiên, với nhóm quốc doanh, CAR hiện quanh 9-11%.
Như VietinBank, CAR của ngân hàng này trong ba năm gần nhất khoảng 8,6-8,9%, theo Công 🐈ty Chứng khoán KB Việt Nam (KBSV). Chỉ số này với BIDV là hơn 9%, còn Vietcombank khoảng 10-11%. Trong khi đó, nhóm ngân hàng tư nhân top đầu sau đợt tăng vốn gần đây đạt tỷ lệ CAR 13-15%.
Trước áp lực về vốn,๊ Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính gần đây đã chấp thuận cho nhóm ngân hàng quốc doanh tăng vốn điều lệ một phần từ lợi nhuận giữ lại những năm gần đây. Đây là giải pháp khả dĩ nhất thực hiện mà không ảnh hưởng tới sở hữu Nhà nước.
Theo Chứng khoán Vietcombank (VCBS), vốn điều lệ củಌa BIDV có thể tăng lên hơn 70.000 tỷ đồng nếu chia cổ tức và phát hành thêm cổ phiếu. Quy mô vốn của VietinBank cũng tăng hơn 11.000 tỷ nếu dùng lợi nhuận để lại năm 2022, chưa tính các năm tiếp theo. Tuy nhiên, ngay cả khi các phương án này được thông qua, quy mô vốn của nhóm quốc doanh vẫn thấp hơn một số nhà băng tư nhân, khiến tốc độ tăng trưởng của nhóm này bị hạn chế.
Mặt khác, không tăng đủ vốn, trong khi các tỷ lệ an toàn ở cận mức tố🔥i thiểu có thể khi𓃲ến các ngân hàng quốc doanh khó đạt mức tăng trưởng tín dụng lý tưởng. Như Vietcombank – ngân hàng đứng đầu về quy mô lợi nhuận toàn hệ thống, việc không tăng vốn đủ có thể khiến tăng trưởng tín dụng và tài sản những năm tới tối đa quanh 10%. Chưa kể, nếu không được chia cổ tức bằng cổ phiếu mà thay bằng tiền mặt, tỷ lệ CAR của ngân hàng này có thể xuống dưới mức tối thiểu 8%.
Tình trạng này với VietinBank nghiêm trọng hơn khi sở hữu Nhà nước đã ở mức tối thiểu, quy mô vốn chỉ có thể cải thiện từ việc chia lợi nhuận tích lũy hoặc tăng vốn cấpꦫ 2 (vốn bổ sung) qua kênh trái phiếu. Việc duy trì tốc độ tăng trưởng, mở rộng quy mô sẽ là một bài toàn ꧃không dễ giải.
Minh Sơn