Tôi chỉ được gặp Bác khi Người cùng Tổng thống Sukarno đến thăm Đại học T▨ổng hợp Hà Nội ở 19 Lê Thánh Tông. Tôi cũng được đeo băng tang nửa đỏ nửa đen tham dự lễ tang Hồ Chủ tịch tại quảng trường Ba Đình. Vợ tôi là con gái nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc gia giáo dục của Chính phủ Liên hiệp kháng chiến Việt Nam Dân chủ cộng hòa từ năm 1946 đến năm 1975, Giáo sư Nguyễn Văn Huyên.
Ngày Bác sang Pháp cùng đoàn đại biểu Việt Nam dự Hội nghị Fontainebleau trong đó có Bộ trưởngꦗ Nguyễn Văn Huyên, tình cờ tại sân bay Gia Lâm, Bác thấy đồng chí Phạm Văn Đồng bế một cháu gái khoảng bốn tuổi. Bác rất vui khi biết đó là bé Hiếu, "con gái của bố Huyên". Bác đã bế bé một lúc trước khi lên máy bay.
Và mãi về sau, Bác vẫn không quên bé gái này. Trong kháng chiến chống Pháp, khi chưa đầy mười tuổi, Hiếu không may mắc bệnh lao xương, ốm liệt giường. Biết tin, Bác nhờ người tìm thuốc và cao hổ cốt để "chú Huyên" chạy chữa cho con. Mỗi lần họp Hội đồng Chính🗹 phủ, Bác lại hỏi thăm: "Cháu Hiếu đã khỏi chưa? Nếu cháu bắt đầu chơi đùa được là không đáng lo đâu".
Năm 1953, bé Hiếu lành bệnh, cùng khá đông thiếu nhi Việt Nam sang học tập tại nước bạn. Bác tìm một hộp sữa và một mảnh vải ka-ki màu vàng để "chú Huyên" mang về cho💜 bé Hiếu, dặn: "Chú bảo cô may gấp cho cháu một cái áo bằng mảnh vải này nhé".
Nhiều năm trôi qua, một lần tại Hà Nội, Hiếu cùng đoàn cháu ngoan Bác Hồ lên Phủ Chủ tịch gặp Bác.ও Bác ân cần thăm hỏi từng cháu một. Khi nghe Hiếu thưa: "Cháu là con bố Huyên", Bác đã ôm đầu em, âu yếm hỏi: "Có phải cháu là Hiếu không?"
Đứa cháu gái bé bỏng và ốm yếu về sau đã 𝄹là đại tá, phó giáo sư, tiến sĩ, thầy thuốc nhâ🅘n dân Nguyễn Kim Nữ Hiếu, nguyên phó giám đốc Bệnh viện Trung ương quân đội 108.
Năm 1972, cô bé ngày nào đã tham gia chiến dịch Quảng Trị để trực tiếp cứu chữa thương, bệnh binh. Khi xung phong lên đường vào Nam cũng là lúc vợ tôi vừa mang thai đứa con trai đầu tiên. Đứa bé ấy hiện là Phó giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Lân Hiếu, Giám đốc Bệnh viện Đại 🌜học Y Hà Nội, Đại biểu Quốc hội Khóa 14.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà lãnh đạo đặc biệt quý trọng người tài. Khi thành lập Chính phủ tại Kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa I ngày 3/11/1946, Bác đã đề nghị lựa chọn nhiều trí thức không phải Đảng viên. Tiêu chí là "gồm tất cả các nhân tài trong nước để gánh vác việc quốc gia... đặt quyền lợi Tổ quốc và dân tộc lên trên hết, lấy lòng chí công vô tư mà làm việc", theo Hồ Chí Minh t💜oàn tập (1995).
Ðó là Bộ trưởng Nội vụ Huỳnh Thúc Kháng, Bộ trưởng Giáo dục Nguyễn Văn Huyên, Bộ trưởng Giao thông công chính Trần Ðăng Khoa, Bộ trưởng Y tế Hoàng Tích Trí, Bộ trưởn🐎g Tư pháp Vũ Ðình Hòe, Bộ trưởng Canh nông Ngô Tấn Nhơn, Bộ trưởng Cứu tế Chu♕ Bá Phượng, Bộ trưởng Không bộ Nguyễn Văn Tố và Bồ Xuân Luật.
Năm 1947, Chính phủ được cải tổ với sự tham gia thêm của một số trí thức ngoài Ðảng khác như: Bộ trưởng Kinℱh tế Phan Anh, Bộ trưởng Ngoại giao Hoàng Minh Giám. Sau khi cụ Huỳnh Thúc Kháng tạ thế, Bác mời cụ Phan Kế Toại làm Quyền Bộ trưởng Nội vụ. Chính phủ khi đó có tới mười vị ngoài Ðảng, đều là những trí thức nhiệt tình và đem hết tâm trí ra để hoàn thành trọng trách của mình.
Sau ngày hòa bình lập lại, 20/9/1955, 🅠Chính phủ được bổ sung, thay đổi nhân sự, lúc này vẫn còn tám vị bộ trưởng là người ngoài Ðảng. Có những vị đã hoàn thành xuất sắc cương vị công tác của mình trong mấy chục năm liền như Nguyễn Văn Huyên, Phan Anh, Nghiêm Xuân Yêm, Trần Ðăng Khoa. Cụ Pha📖n Kế Toại về sau được cử làm Phó Thủ tướng Chính phủ.
Bố vợ tôi, Giáo sư Nguyễn Văn Huyên đã hoạt động suốt ba thập niên để xây dựng ngành giáo dục. Khi nghe tin thân mẫu của Giáo sư Nguyễn Văn Huyên là mẹ vợ cụ Phan Kế Toại qua đời, Bác đã viết thư chia buồn: "Cụ Phan, Bộ trưởng Bộ Nội vụ/ Ông Nguyễn, Bộ trưởng Bộ Giáo dục. Tôi rất buồn được tin Bá Mẫu qua đời. Nhân danh tôi và nhân danh Chính phủ, tôi kính gửi lời chia buồn với Cụ và Ông cùng quý quyến, Hồ Chí Minh". Những chuyện ấm lòng như vậy, kể sao cho🌞 xiết.
Những ngày này, nước ta đang chuẩn bị nhân sự tham gia Trung ương, Bộ chính trị, Ban bí thư, lãnh đạo chủ chốt các cơ quan nhà ꦿnước nhiệm kỳ 2021-2026 và tháng Năm cũng kỷ niệm ngày sinh chủ tịch Hồ Chí Minh, tôi nghĩ về những phẩm cách của người lãnh đạo. Tôi vẫn tin rằng ở mọi thời, mọi quốc gia, mọi dân tộc, chữ Tâm chữ Đức là cao hơn cả. Dù làm chức gì đi nữa, nếu trái tim vị ấy thiếu hơi ấm và sự quan tâm đến con người, mọi thứ khác đều không nhiều ý nghĩa.
Tháng 12/1945, Hồ Chủ tịch yêu cầu: "ꦫQuốc hội tự chọn lấy người hiền năng đảm nhiệm chính phủ mới". Bây giờ dân số nước ta đã tăng lên gấp hơn 4,3 lần, người tài đức đâu có thiếu, vậy mà nơi này nơi khác vẫn còn tình trạng "dùng người không biết nhạc làm nhạc trưởng". Theo Bác, "cái tâm của người lãnh đạo quyết định việc biết trọng dụng hay không trọng dụng nhân tài".
Cái tâm của con người chịu sự kiểm soát của một linh thức mang màu sắc phương Đông, đó là tư duy: "ở hiền gặp lành", "ác giả, ác báo", "gieo gió, gặt bão", "đời cha ăn mặn, đời con khát nước". Đây chính là niềm tin nhân - quả trong Phật giáo. Con người còn có thể gieo nhân gặt quả ngay trong cùng một kiếp. Quyền hành, lợi lộc, của cải, tiền bạc, danh vị, chức tước chẳng qua cũng chỉ là những phù du của kiếp người. Những kẻ tham quan 🥂hãy ngẫm xem, về lâu dài đã mấy kẻ có cuộc sống thanh bình, con cái thành đạt, gia đình hạnh phúc?
Nhiều vị tuy có chức quyền vẫn còn sống buông thả, vi phạm các nguyên tắc đạo đức, vi phạm pháp luật. Họ không biết sợ vì có một đời sống tâm linh quá nghèo nàn. Tuy nhiên, sớm hay muộn họ cũng phải trả giá, như Bác đã tổng kết: "Có hai con đường ở thế giới, ở trong nước và ở trong mình. Theo con đường ác thì dễ dàng, nhưng lăn xuống hố. Theo con đường thiện thì khó nhọc, nhưng vẻ vang". Sẽ꧅ đau khổ biết bao nếu như khi về hưu mà không còn ai thèm lai vãng, không còn ai buồn chào hỏi và thậm chí khi đã trở về với cát bụi rồi mà vẫn còn có những người phải giữ mãi oán hận.
Mong sao với tinh thần của Nghị quyết Hội nghị Trung ương IV, mỗi lãnh đạo và cả chúng ta tôn tr꧅ọng lòng tin của chính mình, của mọi người, biết sợ hãi khi làm điều xấu. Mỗi người, từ trên xuống dưới, sống tốt lên thì cả xã hội mới tốt lên được.
Nguyễn Lân Dũng