41.500 tấn than vừa cập cảng Hòn Nét (Quảng Ninh). Đây là mẻ than đầu tiên Tập đoàn Than khoán sản Việt Nam (Vinacomin) nhập khẩu thí điểm từ Nga và sẽ là bước đệm cho kế hoạch nhập than phục vụ nhu cầu trong nước thời gian tới. Điều đáng nói là dù nhu cầu than đang tăng, dự kiến đến năm 2020 sẽ phải nhập khẩu cả triệu tấn, ngành than vẫn đang x♉uất khẩu với số lượng không hề nhỏ.
Mẻ than đầu tiên nhập khẩu về có tên gọi là Antraxit được Vinacomin nhập với giá 2,1 triệu đồng một tấn, tương đương giá than cùng loại bán trong nước. Lãnh đạo ngành than cho hay, than nhập khẩu sẽ được trộn với than trong nước theo tỷ lệ ꩵ4-6, sau đó cung cấp cho các nhà máy nhiệt điện.
Việt Nam được coi là "mỏ vàng đen" của châu Á và Đông Nam Á, với tℱrữ lượng hiện khoảng 3,5 tỷ tấn. Bởi vậy, việc một nước giàu có tài nguyên than lại phải nhập khẩu than sẽ khiến dư luận thế giới bất ngờ. Nhưng nếu tìm hiểu rõ nguyên nhân, thực tế đó hoàn toàn không khó hiểu. Đó là vì dù có thế mạnh về tài nguyên than, nhiều thập kỷ qua, Việt Nam chỉ chú trọng khai thác để xuất khẩu. Có thời điểm (giai đoạn 2006-2011) Việt Nam xuất khẩu tới 21 triệu tấn.
Xuất khẩu một khối lượng lớn than, để rồi giờ đ✱ây "mỏ vàng đen” lại đang đứng trước nghịch lý phải nhập kh🌞ẩu. Trong khi than đá là tài nguyên không tái tạo và không phải quốc gia nào cũng được tự nhiên ưu ái.
Nguy cơ thiếu than cho nhu cầu trong nước đã được giới chuyên gia cảnh báo từ trước. Trên thực tế, theo dự báo Quy hoạch phát triển ngành than Việt Nam đến năm 2020, có xét triển vọng đến năm 2030, Chính phủ cũng đã nêu vấn đề rằng nhu cầu than trong nước đang ngày càng tăng cao. Năm 2015 là 56,2 triệu tấn, năm 2020 là 112,3 triệu tấn, năm 2025 là 145,5 tr🐼iệu tấn, và cho đến năm 2030, Việt Nam sẽ phải tiêu thụ tới 220,3 triệu tấn.
Như vậy, so với mức tiêu thụ năm 2013 (28 triệu tấn) đến năm 2015, nhu cầu than trong nước sẽ tăng gấp hơn 2 lần và đến năm 2030 tăng gấp 8 lần. Trong kꦫhi đó, sản lượng than hiện tại mới chỉ đạt 40 triệu tấn và tương lai cũng khó tăng. Do những chỗ dễ đào đã được khai thác hết, chỉ còn lại những chỗ khó khăn. Hơn nữa, việc đầu tư mỏ mới cần chi phí lớn, thời gian dài (khoảng 300-400 triệu USD và 7-8 năm) nên nhiệm vụ Thủ tướng giao ngành than phải mở 28 mỏ mới trong giai đoạn 2011 – 2015 gần như không thể hoàn thành. Bài toán nhập khẩu than được đặt ra từ đây.
Thế nhưng, nghịch lý ở chỗ, dù ngành than đã lên kế hoạch nhập khẩu trong 20🍒16 - 1020, Vinacomin vẫn xây dựng kế hoạch xuất khẩu trong giai đoạn tương ứng.
Theo ông Nguyễn Văn Biên, Phó tổng giám đốc Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt N🌞am, do nhu cầu than cho các nhà máy nhiệt điện là rất lớn, năm 2016 chắc chắn sẽ phải nhập khẩu. Tập đoàn dự kiến, giai đoạn 2016-2020 sẽ phải nhập khẩu khoảng 20-30 triệu tấn.
Ông cho biết nhập khẩu than cho các dự án nhiệt điện là nhiệm vụ hết sức quan trọng để đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, đặc biệt từ sau năm 2016, khi nhu cầu than tăng mạnh và trong nước không thể đáp ứng đủ. "Chúng tôi sẽ cố gắng cân đối sản xuất để trong năm 2015 không phải nhập khẩu than, song từ năm 2016 chắc chắn sẽ phải nhập khẩu", ông Biên khẳng định. Tuy vậy, lãnh đạo ngành than cũng không phủ nhận kế hoạcꦕh vẫn sẽ xuất khẩu khoảng 2 triệu tấn than mỗi năm.
Vinacomin cho biết cũng 📖đã tính đến việc hợp tác với các đối tác quốc tế để khai thác than ở nước ngoài, do nhu cầu trong nước là rất lớn. "Chúng tôi đang đàm phán với các đối tác nước ngoài để liên kết, tìm kiếm nguồn than. Chúng tôi cũng đã tính đến việc phải hợp tác với một số nước có trữ lượng than lớn để khai thác mỏ tại chỗ", ông nói. Tất nhiên, những chi phí cho mục tiêu này sẽ không hề nhỏ.
Từ một nước được coi là "thủ phủ vàng đen", Việt Nam đang phải bỏ ra một khoản tiền không nhỏ để tìm mọi cách cứu nguy cho an ninh năng lượng quốc gia. Đây là một nghịch lý, và nghịch lý này cũng đ༒ã từng được cảnh báo. Tuy nhiên, ngay cả khi khó khăn đã hiện hữu trước mắt, ngành than vẫn không từ bỏ ý định xuất khẩu, dù lượng xuất khẩu cũng đã giảm so với thời kỳ "nóng nhất".
Các chuyên gia kinh tế cho rằng, thay vì đặt mục tiêu đào tài nguyên để bán, Vinacomin nên tập trung khai thác, quản lý để hạn chế tối🀅 đa thất thoát tài nguy𓆏ên than, như đã và đang xảy ra. Đồng thời, họ nên đầu tư công nghệ, nhân lực để tìm kiếm khai thác than chất lượng tốt, từ đó có thể pha trộn, nâng cao hàm lượng than xấu cung cấp cho nhiệt điện và ngành công nghiệp trong nước. Việc này sẽ hạn chế nhập khẩu và chủ động được nguồn than cho an ninh năng lượng quốc gia.
(theo Đại đoàn kết)