Roberto Carlos (tuyển Brazil, đá 125 trận quốc tế, ghi 10 bàn)
Carlos được thừa nhận rộng rãi như là hậ🔴u vệ trái hay nhất lịch sử bóng đá, dự ba World Cup, một lần về nhì (1998), một lần vô địch (2002). Cựu tuyển thủ Brazil này được đánh giá cao nhất qua kỹ năng sút phạt và hỗ trợ tấn công.
Roberto Carlos (tuyển Brazil, đá 125 trận quốc tế, ghi 10 bàn)
Car𝐆los được thừa nhận rộng rãi như là hậu vệ trái hay nhất lịch sử bóng đá, dự ba World Cup, một lần về nhì (1998), ♉một lần vô địch (2002). Cựu tuyển thủ Brazil này được đánh giá cao nhất qua kỹ năng sút phạt và hỗ trợ tấn công.
Paolo Maldini (Italy, 125 trận, 7 bàn)
Một tượng đài của bóng đá, hiện thân cho vẻ đẹp của triết lý bóng đá phòng ngự Italy - catenaccio. Maldini (áo xanh, số 3) ghi bảy bàn cho "Binh đoàn Thiên thanh", nhưng vô duyên với các danh hiệu lớn cùng tập thể này.
Thành tích tốt nhất của Maldini ở tầm quốc tế chỉ là hai 💟chức Á quân World Cup 1994 và Euro 2♉000.
Paolo Maldini (Italy, 125 trận, 7 bàn)
Một tượng đài của bóng đá, hiện thân cho vẻ đẹp của triết lý bóng đá phòng ngự Italy - catenaccio. Maldini (áo xanh, số 3) ghi bảy bàn cho "Binh đoàn Thiên thanh", nhưng vô duyên với các danh hiệu lớn cùng tập thể này.
Thành tích tốt nhất của Maldini ở t🔯ầm quốc ꦬtế chỉ là hai chức Á quân World Cup 1994 và Euro 2000.
Cafu (Brazil, 142 trận, 2 bàn)
Một huyền thoại hậu vệ biên đích thực. Cafu (áo số 2), xuyên suốt chiều dài sự nghiệp, nổi tiếng với khả năng côn▨g thủ toàn diện.ꦛ Anh hai lần cùng tuyển Brazil vô địch thế giới (1994 và 2002).
Cafu (Brazil, 142 trận, 2 bàn)
Một huyền thoại hậu vệ biên đích thực. Cafu (áo số 2), xuyên suốt chiều dài sự nghiệp, nổi tiếng với khả năng công thủ toàn diện. Anh 🙈hai lần cùng tuyển Brazil vô địch thế giới (1994 và 2002).
Giancinto Fachetti (Italy, 94 trận, 3 bàn)
Huyền thoại của CLB Inter và tuyển Italy cao 1m91 thời còn thi đấu này được cho là làm thay đổi cách nhìn nhận về vị trí hậu vệ trái trong bóng đá châu Âu.
Fachetti (bên phải) không chỉ biết cách phòng ngự chắc, mà còn tham gia tấn công rất hiệu quả. Ô♉ng là hạt nhân của tuyển Italy vô địch Euro 1968.
Giancinto Fachetti (Italy, 94 trận, 3 bàn)
Huyền thoại của CLB Inter và tuyển Italy cao 1m91 thời còn thi đấu này được cho là làm thay đổi cách nhìn nhận về vị trí hậu vệ trái trong bóng đá châu Âu.
Fachetti (bên phải) không chỉ biết cách ♕phòng ngự chắc, mà còn tham gia tấn công rất hiệu quả. Ông là🌠 hạt nhân của tuyển Italy vô địch Euro 1968.
Nilton Santos (Brazil, 75 trận, 3 bàn)
Santos (bên trái) từng hai lần vô địch World Cup (1958, 1962) cùng ♏tuyển Brazil đều với vai trò hậu vệ trái.
Nilton Santos (Brazil, 75 trận, 3 bàn)
Santos (bên trái) từng hai lần vô địch World Cup (1𓄧958, 1962) cùng tuy🍌ển Brazil đều với vai trò hậu vệ trái.
Djalma Santos (Brazil, 100 trận, 3 bàn)
Giống Nilton bên cánh trái, Djalma là lựa chọn số một🍌 của tuyển Brazil cho vị trí hậu vệ phải khi họ vô địch các kỳ World Cup 1958 và 1962. Djalma là hình mẫu cho những hậu vệ phải xuất chúng của Brazil về sau như Carlos Alberto, Cafu hay Dani Alves, Maicon...
Djalma Santos (Brazil, 100 trận, 3 bàn)
Giống Nilton bên cánh trái, Djalma là lựa chọn số một của tuyển Brazil🧜 cho vị trí hậu vệ phải khi họ vô địch các kỳ World Cup 1958 và 1962. Djalma là hình mẫu cho những hậu vệ phải xuất chúng của Brazil về sau như Carlos Alberto, Ca🐟fu hay Dani Alves, Maicon...
Carlos Alberto Torres (Brazil, 54 trận, 8 bàn)
Alberto chỉ kém Carlos về số lần ghi bàn cho tuyển Brazil. Hậu vệ phải này là một chuyên gia đi bóng và sở hữu những cú sút xa ཧcó khả năng "sát thương" rất cao với cầu môn🐟 đối phương. Ông cùng Brazil vô địch World Cup 1970.
Carlos Alberto Torres (Brazil, 54 trận, 8 bàn)
Alberto chỉ kém Carlos về số lần ghi bàn cho tuyển Brazil. Hậu vệ phải này là một chuyên gia đi bóng và sở hữu những cú sút xa có khả năng "sát thương" rất cao với cầu môn đối phương. Ông cùng Brazil vô🎃 địch World Cuꦗp 1970.
Andreas Brehme (Đức, 86 trận, 8 bàn)
Tuyển thủ Đức 𒆙này (áo xanh lá cây) là cầu thủ đá cánh trái hay nhất thế giới giai đoạn cuối 1980, đầu 1990. Ông là trụ cột của tuyển Đức vô địch World Cup 1990, nơi Brehme gieo rắc kinh hoàng cho những tiền đạo đối phương khét tiếng như Gullit, Van Basten (Hà Lan), Lineker (Anh), Mara𒉰dona (Argentina).
Andreas Brehme (Đức, 86 trận, 8 bàn)
Tuyển thủ Đức này (áo xanh lá cây) là cầu thủ đá cánh trái hay nhất thế giới giai đoạn cuối 1980, đầu 1990. Ông là trụ cột của tuyển Đức vô địch World Cup 1990, nơi Brehme gieo rắc kinh hoàng cho những tiền đạo đối phương khét tiếng như Gullit, Van Basten (Hà Lan), Lineker (Anh), Mar🐷adona (Argentina).
Javier Zanetti (Argentina, 145 trận, 5 bàn)
Có cùng số bàn thắng như Jordi Alba, nhưng Zanetti (áo trắng xanh) được đánh giá cao nhờ yếu tố ổn định. Hậu vệ kỳ cựu đang thi đấu cho Inter này là sự lựa chọn số một của tuyển Argentina cho hai vị trí hậu ✨vệ biên suốt 17 năm thi đấu quốc tế (1994-2011).
Javier Zanetti (Argentina, 145 trận, 5 bàn)
Có cùng số bàn thắng như Jordi Alba, nhưng Zanetti (áo trắng xanh) được đánh giá cao nhờ yếu tố ổn định. Hậu vệ kỳ cựu đang thi đấu cho Inter này là sự lựa chọn số một của tuyển Argentina cho hai vị tr🌊í hậu vệ biên suốt 17 năm thi đấu quốc tế (1994-2011).
Karl-Heinz Schnellinger (Tây Đức, 57 trận, 1 bàn)
𝓰Schnellinger (áo trắng) chơi cả hậu vệ trái lẫn 🌠liberto (trung vệ thòng). Ông không gặp thời khi tỏa sáng đúng giai đoạn Nilton Santos bùng nổ trong màu áo Brazil. Nhưng với vai trò trụ cột tuyển Tây Đức ba lần vào bán kết World Cup (1958, 1966, 1970), danh thủ này vẫn được xếp vào nhóm các hậu vệ cánh hay nhất lịch sử bóng đá.
Karl-Heinz Schnellinger (Tây Đức, 57 trận, 1 bàn)
Schnellinger (áo trắng) chơi cả hậu vệ trái lẫn liberto (trung 🐲vệ thòng). Ông không gặp thời khi tỏa sáng đúng giai đoạn Nilton Santos bùng nổ trong màu áo Brazil. Nhưng với vai trò trụ cột tuyển Tây Đức ba lần vào bán kết World Cup (1958, 1966, 1970), danh thủ này vẫn được xếp vào nhóm c🍬ác hậu vệ cánh hay nhất lịch sử bóng đá.
Phương Minh