Theo đó, EPA (Environmental Protection Agency) là Cơ quan bảo vệ môi trường Mỹ, WLTP (W🍌orldwide Harmonised Light Vehicle Test Procedure) là Quy trình kiểm tra đồng bộ cho xe hạng nhẹ toàn cầu và NEDC (New European Driving Cycle) là Chu kỳ lái xe châu Âu mới.
Thực tế, đây là những quy chuẩn quen thuộc từ lâu, được dùng để xác định mức khí thải CO2, độ ô nhiễm, mức tiêu thụ nhiên liệu của ôtô xăng, dầu truyền thống cũng như ôtô hybrid. Khi xe điện ra đời, các quy𝓀 chuẩn này có thêm một yếu tố nữa ꦿđể xác định là quãng đường cho xe điện, cũng tương tự việc đo mức tiêu thụ điện của xe.
Quy chuẩn EPA
EPA đo quãng đường di chuyển của xe điện qua một thiết bị gần giống như một chiếc "máy chạy bộ khổng lồ" dành cho ôtô. Quy trình này có tên Multi-Cycle City/Highway T🥃est Procedure (Quy trình kiểm tra thành phố/đường cao tốc nhiều chu kỳ), bắt đầu bằng việc sạc đầy pin xe qua đêm. Sáng hôm sau, EPA bắt đầu quá trình chạy xe, mô phỏng điều kiện thử nghiệm trong thành phố và cao tốc, cho đến khi xe cạn pin.
Việc đo đạc được thực hiện tại 🦄nhiệt độ phòng trong môi trường kín. Các phương tiện được chạy thử nghiệm với một người lái xe, không có hành khách hoặc hàng hóa.
Ngoài đưa ra con số về quãng đường di chuyển được tính bằnꦬg dặm, EPA cung cấp thêm cách đo lường quãng đường di chuyển bằng xe điện khác có tên là MPGe (Miles Per Gallon-equivalent), tức số dặm đi được với mỗi gallon nhiên liệu tương đương. EPA quy đổi năng lượng nhiệt tạo ra từ một gallon nhiên liệu (xăng) bằng 33,7 kWh điện – lượng điện cần thiết tạo ra lượng nhiệt tương tự. Ví dụ, một chiếc xe điện có chỉ số 117 MPGe có nghĩa xe đi được 117 dặm (188 km) với 33,7 kWh điện.
Quy chuẩn NEDC và WLTP
NEDC và WLTP được thông qua bởi Ủy ban Vận tải Nội địa của Ủy ban Kinh tế Liên hiệp quốc châu Âu (UꦇNECE). NEDC được giới thiệu vào những năm 1980 để đo quãng đường di chuyển của ôtô xăng, dầu và sau đó được mở rộng sang đo lường ôtô điện.
WLTP được áp dụng từ tháng 9/2018, với mục tiêu thay thế NEDC, cung cấp các đánh giá tiêu thụ nhiên liệu cho các xe chạy xăng, dầu, điện và lai điện (hybrid). Cả NEDC và WLTP 🎉đều được thực hiện với tốc độ tối đa của phương tiện lớn hơn chuẩn EPA, với một chút khác biệt:
NEDC | WLTP |
Quy trình một giai đoạn, thực hiện bằng "máy chạy bộ khổng lồ" trong môi trường phòng thí nghiệm | Chu trình gồm 4 giai đoạn với cường độ từ thấp nhất đến cao nhất, thực hiện bằng "máy chạy bộ khổng lồ" trong môi trường phòng thí nghiệm |
Có mô phỏng chạy trong điều kiện dừng liên tục (stop-and-go) | Mô phỏng chạy trên trục lăn với tổng quãng đường 23 km, 4 giai đoạn bao gồm tốc độ thấp 56,5 km/h, trung bình 76,6 km/h, cao 97,4 km/h, rất cao 131,3 km/h |
Nhiệt độ thử nghiệm dao động 20-30 độ C | Nhiệt độ thử nghiệm cố định mức 23 độ C |
Không tính các yếu tố thực tế khi lái xe, như bật/tắt điều hòa, đèn hoặc sử dụng radio | Có tính các yếu tố thực tế khi lái xe và mô phỏng điều kiện giao thông, như trong thành phố hoặc ngoài cao tốc |
Vì WLTP bao gồm nhiều giai đoạn thử nghiệm hơn và tính cả các yếu tố khác trong điều kiện lái xe thực tế, quy chuẩn này th💞ường cung cấp cái nhìn toàn diện 🎶hơn nếu so sánh với chuẩn NEDC.
Đâu là quy chuẩn đo lường chính xác với quãng đường di chuyển thực tế của xe điện nhất?
NEDC do đã xuất hiện quá lâu và lỗi thời🔯 hơn hai quy chuẩn khác nên quãng đường di chuyển của xe điện đo bằng chuẩn này sẽ ít chính xác với điều kiện thực tế nhất.
Cả WLTP và EPA đều cho con số quãng đường di chuyển của xe điện gần với thực tế nhất, tuy nhiên đa phần mức ước tính của WLTP sẽ nhỉnh hơn EPA. Các bài thử nghiệm c💧ủa WLTP được thực hiện trong môi trường được cho là tối ưu nhất cho xe điện (nhiệt độ duy trì ở mức 23 độ C). Chính vì thế, quãng đường chạy của xe điện được cải thiện vì sự hiệu quả về năng lượng pin xe điện phụ thuộc phần lớn vào nhiệt độ môi trường, môi trường quá nóng hoặc quá lạnh đều có thể giảm tầm hoạt động của xe.
Ngoài ra, các bài thử ng▨hiệm của EPA tập trung vào điều kiện lái xe tại Mỹ, trong khi đó WLTP tập trung vào thị trường châu Âu, do đó có sự khác nhau về hai quy chuẩn đo lường này. Các chuyên gia cho rằng quãng đường di chuyển của xe điện phụ thuộc vào rất nhiều cá✤c yếu tố khác, ví dụ tốc độ chạy, thời tiết, việc sử dụng các thiết bị điện trong xe, tình hình giao thông, mức độ cản gió của thân xe hay thói quen chạy của tài xế. Chính vì thế, các con số ước tính quãng đường di chuyển trong một lần sạc chỉ mang tính chất tham khảo.
Ví dụ dưới đây về quãng đường di chuyển thực tế của mẫu xe🧜 điện BMW i4 M50, được thử nghiệm từ trạng thái đầy pin và liên tục di chuyển cho đến khi pin còn 5%. Xe được giữ ở tốc độ 90 km/h hoặc 120 km/h, kết hợp giữa lái xe trên cao tốc và trong thành phố tại Na Uy.
Theo EPA |
Theo WLTP |
Thực tế trong mùa hè, 90 km/h |
Thực tế trong mùa hè, 120 km/h |
Thực tế trong mùa đông, 90 km/h |
Thực tế trong mùa đông, 120 km/h |
434 km |
520 km |
518 km |
370 km |
385 km |
285 km |
Tân Phan (theo Lifewire)