Xét về lượng khách và doanh thu khách quốc tế trong 10 năm (2010-2019) khi số liệu thống kê đầy đủ𝕴 và du lịch không bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh, Việt Nam tăng trưởng dần đều. Năm 2010, khách quốc tế đạt hơn 5,1 triệu lượt. Sau 10 năm lượng khách quốc tế tăng gấp 3,5 lần༒ với 18 triệu lượt vào 2019, cao nhất từ trước đến nay, theo dữ liệu của Tổng cục Du lịch và World Tourism Organization, cơ quan nghiên cứu và thúc đẩy du lịch của Liên Hợp Quốc.
Doanh thu du lịc🔯h từ khách quốc tế tăng từ 4,4 tỷ USD vào năm 2010 lên gần 18 tỷ USD. Mức chi tiêu trung 🀅bình một khách quốc tế năm 2010 đạt hơn 880 USD. Năm 2019, con số là 1.200 USD.
So với 10 nước Đông Nam Á (không gồm Đông Timor), lượng khách và doanh thu du lịch trong 10 năm của Việt Nam đứng thứ năm, mức trung bình, sau Thái Lan, Malaysia, Singapore và Indonesia. Về mức chi tiêu trung bình ಞcủa khách quốc tế trong nhiều năm liền Việt Nam đứng thứ sáu, trên Lào, Campuchia, Brunei và Myanmar. Theo số liệu của Tổng cục Du lịch, năm 2019, Việt Nam vươn lên vị trí thứ ba, sau Thái Lan và Malaysia. Trước đó, chi tiêu trung bình trong một kỳ nghỉ của khách quốc tế ở Thái Lan năm 2010 đã đạt gần 1.500 USD, năm 2019 là 2.400 USD.
Khách quốc tế đến Singapore trung bình chi tiêu mỗi năm từ 1.000 đ𝐆ến 1.30꧂0 USD, Malaysia dao động 800 - 850 USD, Indonesia từ hơn 1.000 đến 1.200 USD, Philippines từ gần 980 đến gần 1.400 USD.
Ông Hoàng Nhân Chính, Trưởng ban Thư ký Hội đồng Tư vấn Du lịch (TAB), nói Việt Nam có thể đạt mục tiêu vươn lên top 3 trong khu vực về mọi mặt. Nhưng nếu để soán ngôi vương của Thái Lan, Phó giáo sư, tiến sĩ P🌃hạm Hồng Long, trưởng khoa Du lịch học, Đại học KHXH&NV, đánh giá "có thể cần 20 năm hoặc lâu hơn nữa dù du lịch Việt Nam đang phát triển nhanh".
So 💝sánh với🌃 quán quân Đông Nam Á, lượng khách và doanh thu của Việt Nam trong năm cao nhất (2019) thấp hơn chỉ số Thái Lan đạt được cách đây 9 năm. Năm 2011, Thái Lan đón 16 triệu lượt khách, doanh thu đạt 30,9 tỷ USD. Năm 2019, Thái Lan đón 39,9 triệu lượt, thu về hơn 64,3 tỷ USD.
Năm cao nhất của Việt Nam vẫn thấp hơn năm thấp nhất của Malayisa là 2010 (24,5 triệu lượt khách, 19,6 tỷ USD). Tuy nhiên chỉ số phát 🌠ꦉtriển về du lịch của Malaysia trong 10 năm có dấu hiệu "giậm chân tại chỗ". Năm Malaysia đón khách đông nhất là 2019, với hơn 26 triệu lượt khách, tăng gần 10% so với năm thấp nhất.
Về doanh thu khách quốc tế trên GDP, trong 10 năm Việt Nam cũng có mức tăng trưởng dần đều, từ 3,2% n🃏ăm 2010 lên 5,32% năm 2019. 2019 cũng là năm ngành du lịch Việt có doanh thu từ khách quốc tế trên GDP cao nhất trong 10 năm trước dịch, đứng thứ tư ꦛtrong Đông Nam Á. Những năm còn lại, Việt Nam thường nằm top 5 hoặc 6. Campuchia, Thái Lan là hai quốc gia giữ vị trí số một và hai trong 10 năm liên tiếp khi doanh thu khách quốc tế trên GDP đạt hai chữ số. Thái Lan dao động 6,98-12,11%, Singapore 5,35-6,42%, Indonesia 1,01% - 1,64% còn Malaysia khoảng 6,08-7,69%.
Để vươn lên top hai, ba trong khu vực và thậm chí là top đầu, du lịch Việt Nam cần phát huy các t꧅hế mạnh cũng như k🌃hắc phục điểm yếu, theo các chuyên gia du lịch.
Báo cáo chỉ số năng lực🎃 phát triển du lịch toàn cầu năm 2021 của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) phát hành hồi tháng 5/2022 xếp du lịch Việt Nam đứng thứ 52 trên 117 🎶nền kinh tế. Nếu xét trong khu vực Đông Nam Á, Việt Nam đứng sau bốn nước Singapore (9), Indonesia (32), Thái Lan (36), Malaysia (38). WEF không xếp hạng Myanmar, Timo Leste và Brunei.
🦹WEF xếp hạng 117 nền kinh tế trên cơ sở đo lường 17 chỉ số trụ cột. Việt Nam có 6 chỉ số trụ cột được xếp vào nhóm dẫn đầu thế giới. Một trong số đó là Sức cạnh tranh về giá (hạng 15), sau Lào (14) và Malaysia (2) ở Đông Nam Á. Tài nguyên văn hóa đứng thứ 25, chỉ sau Indonesia (thứ 3) ở khu vực. Về chỉ💎 số an ninh, an toàn, Việt Nam đứng thứ 33, tăng 16 bậc so 2019, xếp sau Singapore (thứ nhất) trong Đông Nam Á.
Việt Nam đứng thứ 94 trong chỉ số Tính bền vững của ꦕmôi trường, tụt hai bậc so 2019 và chỉ cao hơn hai quốc gia trong khu vực là Philippines (95) và Thái Lan (97). Về Sự ưu tiên của chính phủ dành cho du lịch, Việt Nam đứng thứ 87, giảm ba bậc so với 2019, cao hơn Thái Lan (88) và thấp hơn các nước khác trong khu vực.
Về Độ mở đối vớ𒈔i quốc tế (đánh giá dựa trên chính sách🅘 thị thực), Việt Nam đứng thứ 69 trên 117 quốc gia, tăng sáu bậc so 2019 nhưng chỉ hơn Philippines (71) và Lào (84) tại Đông Nam Á.
"Nếu xét về tài nguyên để hút khách, Indonesia được đánh giá cao nhất khu vực. Nhưng Thá🤪i Lan, Singapore mới là quốc gia đông khácಌh nhất. Điều đó cho thấy chúng ta cần phải xem xét lại chiến dịch quảng bá phù hợp", ông Chính nói.
Thị thực cũng là v♔ấn đề cần cải thiện. Trưởng ban Thư ký TAB cho rằng ngoài kéo dài thời gian thị thực, Việt Nam cần tăng thêm số nước miễn thị thực và mở rộng danh sách các nước được áp dụng thị thực điện tử. Hiện Việt Nam mới miễn thị thực cho hơn 20 nước và áp dụng thị thực điện tử với hơn 80 nước. Trong khi đó, Thái Lan miễn cho 67 nước, ꧋Malayisa và Singapore là 150 nước.
Quản lý điểm đến cũng là một yếu tố. Sẽ không ai muốn đến một nơi ô nhiễm, đầy rác thải hoặc chặt chém, chèo kéo. "Nếu đến chợ Đồng Xuân hỏi món nọ món kia mà không mua🌺, nhiều người sẽ sợ bị chủ hàng chửi. Tại Thái Lan không có chuyện đó. Người bán hàng đều rất🌠 vui vẻ", ông Phạm Hồng Long nói.
Chuyên gia cho rằng Việt Nam cũng cần định vị thương hiệu quốc gia. "Ngành 🏅du lịch cần tìm ra cái mạnh nhất, độc đáo nhất để định vị troꦇng tâm trí khách hàng thay vì nói chung chung. Nếu chỉ bảo: đất nước chúng tôi đẹp lắm, hãy đến đi thì sẽ chẳng ai đến", theo ông Phạm Hà, CEO Lux Group.
Phương Anh