Trong cuộc thăm dò ý kiến do tạp chí Billboard thực hiện trước kỳ World Cup 2018, The Cup of Life (1998) nằmဣ trong top những ca khúc được yêu thíc♊h của giải đấu, cùng Waka Waka (2010) của Shakira. Chuyên trang thể thao Sportskeeda cũng xếp The Cup of Life là bài hát World Cup hay nhất mọi thời.
The Cup of Life có tên tiếng Tây Ban Nha là La Copa de la Vida. Thời điểm ca khúc ra đời, Ricky Martin 27 tuổi và chưa phải tên tuổi lớn trong làng nhạc thế giới. Việc được FIFA đặt hàng sáng tác, thể hiện ca khúc chính thức của World Cup 1998 mở ra cơ hội lớn thay đổi sự nghiệp của anh. Ricky Martin bàn bạc với ê kíp, thống nhất ý tưởng tạo ra một nhạc phẩm "có thể kết nối đám đông và khiến họ bùng nổ". Anh chọn hợp tác với nhạc sĩ Desmond Child, Draco Rosa và Luis Gómez Escolar. Họ quyết định sử dụng chất liệu chủ đạo là nhạc Latin, pha âm hưởng Pop để phù hợp với thị hiếu chung. Công thức này ngày na𝔍y vẫn được các ngôi sao của dòng nhạc Latin áp dụng.
* MV "The Cup of Life"
Ngay từ những nốt nhạc đầu tiên, The Cup of Life gợi lên sự náo nức, mê say qua giai điệu rộn rã của tiếng kèn, trống xen♏ lẫn tiếng còi báo hiệu. Bài hát gồm nhiều câu mệnh lệnh ngắn, được viết theo tiết tấu mạnh, thể hiện sự quyết tâm cháy bỏng của các tín đồ túc cầu giá🐟o.
"The cup of life, this is the one
Now is the time, don't ever stop
Push it along, gotta be strong
Push it along, right to the top
The feeling in your soul is gonna take control
Nothing can hold you back if 🌳you really want it..."
"Chiếc cúp cuộc đời chỉ có một
Giờ không phải là lúc để bạn dừng chân
Sút bóng thật mạnh mẽ lên nào
Và tung ra cú dứt điểm trúng đích
Hãy để tâm trí bạn thăng hoa cùng những bước chân
Không gì có thể níu chân𝐆 nếu bạn thật lòng mong muốn..."
The Cup of Life không có những khoảng chùng. Ca khúc đẩy cao cảm xúc của n💧gười nghe qua ph✨ần ca từ mang chất cổ vũ mạnh mẽ.
"Just steal your destiny. Right from the hands of fate
Reach for the cup of life. 'Cause your name is on it
Do you really want it?"
"Hãy chớp lấy thời cơ trong khoảnh khắc định mệnh này
Vươn tới chiếc cúp cuộc đời để tên bạn được khắc ghi cùng nó
Bạn có thực sự muốn không?"
* Ricky Martin biểu diễn "The Cup of Life" ở Grammy 1999
Ngày 12/7/1998, Ricky Martin biểu diễn The Cup of Life tại lễ bế mạc World Cup trên sân Stade de🦩 France ở vùng Sꦍaint-Denis, khép lại một mùa hè sôi động và ngập tràn cảm xúc. Anh mặc bộ suit màu xanh đậm, khoe vũ đạo lôi cuốn qua từng cú lắc hông. Nam ca sĩ thể hiện cả phiên bản tiếng Anh và tiếng Tây Ban Nha của bài hát, bên dàn nhạc công lên đến vài chục người. Trên khán đài, cổ động viên hai đội Pháp và Brazil hào hứng p꧅hiêu theo điệu nhạc.
Theo thống kê, 1,4 tỷ người từ 178 quốc gia đã dõi theo màn trình diễn. Dù Br🦩azil thất bại, truyền thông Nam Mỹ vẫn tự hào khi âm nhạc Latin vang lên trên một đất nước châu Âu cổ kính. "Khoảnh khắc tự hào nhất của thế giới Latin", "thế giới say mê với Latin"... l🍌à những cụm từ được báo chí lúc bấy giờ sử dụng để miêu tả về màn trình diễn. Vượt qua khuôn khổ của kỳ World Cup 1998, The Cup of Life trở thành b📖ản hit bất hủ - dấu ấn đẹp trong💜 sự nghiệp của Ricky Martin.
Với khán giả cuối 8x, đầu 9x ở Việt Nam, The Cup of Life chứa đựng những ký ức đẹp đẽ về mùa hè mê say cùng môn thể thao vua💎. Kênh MTV đều đặn phát bài hát vài lần mỗi ngày. Video tổng hợp các bàn thắng đều được lồng ca khúc. Ở những phút giải lao giữa trận, người ta cũng nghe thấy giai điệu của The Cup of Life. Từ năm 1998 đến đầu thập niên 2000, hình ảnh những đứa trẻ cởi trần, rê bóng khắp xóm hát vang "Go, ♌go, go! Ale, ale, ale!" xuất hiện ở mọi vùng miền. Những cô bé, cậu bé năm ấy có thể không hiểu ý nghĩa câu hát, nhưng với họ, giai điệu ấy rất thân quen.
Ca khúc cũng gắn với những kỷ niệm về một kỳ World Cup chứa đựng nhiều bất ngờ, khi FIFA nâng số đội dự vòng bảng từ 24 lên 32, với sự góp mặt của nhiều cái tên mới như Croatia, Jamaica, Nhật Bản, Nam P﷽hi. Luật bàn thắng vàng được áp dụng lần đầu, mang đến những trận cầu thăng trầm cảm xúc. Đây cũng là kỳ World Cup sôi động với 172 bàn thắng được ghi (tỷ lệ 2,67 bàn một trận). 37 cầu thủ ghi được từ hai bàඣn trở lên, nhiều nhất trong các kỳ World Cup.
"Ngựa ô" Croatia loại Đức ở tứ kết, thắng Hà Lan trong trận tranh huy chương đồng ở lần đầu tiên dự giải. Những chú "gà trống Gaജulois" Pháp lần đầu vô địch với thế hệ vàng gồm nhiều cầu thủ gốc nhập cư như Lizazaru (Basque), Zidane (Algeria), Djorkaeff (Armenia), 💟Desailly (Ghana)... Sự thể hiện mờ nhạt của Ronaldo và tuyển Brazil trong trận chung kết gặp Pháp làm dấy lên nghi án dàn xếp tỷ số. Thượng viện và hạ viện Brazil thậm chí còn mở điều trần để tìm hiểu nguyên nhân thất bại. Nhiều năm sau, những cổ động viên nhiệt thành của Selecao vẫn đồn đoán thực chất, Brazil nhường Pháp cúp vô địch để đổi lấy một khoản viện trợ khổng lồ.
Khán giả có thể tạm quên đi những ẩn ức về kết quả của kỳ World Cup năm ấy n🧸hưngﷺ có một điều mãi mãi vẹn nguyên trong ký ức của họ về "France 1998" - đó là giai điệu rạo rực của The Cup of Life. Bốn kỳ World Cup trôi qua, nhiều tác phẩm c💮ổ vũ môn thể thao vua ra đời, thế nhưng The Cup of Life vẫn giữ vị trí đặc biệt.
Hà Thu