Báo chí nói rất nhiều đến các loại thuế và phí mà một chiếc ôtô (hay đúng hơn là chủ nhân của chiếc ôtô đó) phải cõng. Điều tôi muốn nói ở đây không phải là bao nhiêu loại thuế và lượng phí nhiều hay ít, mà tôi muốn nói đến sự công bằng trong việc trả các🐈 loại phí lưu thông.
Tôi là một công nhân ngành xây dựng dầu khí. Tôi có mua một chiếc ôtô đời cũ 1995, dung tích 💧3.2 lít. Giá trị xe hiện tại khoản 220 triệu. Trong 2 năm qua tôi chỉ chạy 5 ngàn km và chủ yếu dùng vào việc về quê.
Theo như 🎀đề xuất “phí lưu hành ôtô, xe máy” và “phí bảo trì đường bộ” của Bộ GTVT thì xe của tôi phải đóng phí đến 50 triệu + 12 x 180 ngàn = 52,16 t𒊎riệu/năm.
Với hai loại phí này, dù xe tôi không chạy thì ꦿvẫn phải đóng tiền phí một năm tương đương khoảng 24% giá trị xe. Có thể vài năm sau khi giá trị xe của tôi còn khoảng trăm triệu thì phí lưu thông hàng năm là 50% giá trị xe.
Lời phát biểu của cán bộ Bộ GTVT cho rằng những người có khả năng mua xe trên 3 “chấm” hoàn toàn có khả năng đóng phí 50 triꦉệu/năm. Đây quả thật là lời🅰 phát biểu của người chỉ đi trên mây và không dựa trên bất cứ một nghiên cứu nào.
Vợ tôi cũng mua một chiếc xe mới, dung tích 1.6 lít༺ để đưa đón con đi học và đi làm bán thời gian. Giá trị xe hiện tại khoảng 700 triệu và🎀 chạy khoảng 20 ngàn km/năm. Chiếc xe này sẽ đóng hai loại phí kể trên là 20 triệu + 12 x 180 ngàn = 22,16 triệu/năm.
Như vậy, cho mỗi km đường về quê, tôi phải trả phí 20.864 đồng (52,16 triệu / 2500 km). Đó là chưa kể♎ đến mỗi lần về quê tôi phải vượt qua 8 trạm thu phí mỗi chiều đi từ Vũng Tàu đến DakLak. Trong khi đó xe của vợ tôi phải trả phí là 1.108 đồng cho mỗi km đường đô thị. Tức là phí lưu thông trên km chênh lệch nhau gần 20 lần!
Một dẫn chứng ngay trong gia đình của mình cũng đã thấy ༒sự bất cập của các loại phí. Vợ chồng tôi bàn nhau sẽ phải bán bớt chiếc xe của tôi. Như thế mỗi lần về quê chúng tôi phải đi đường vòng Vũng Tàu - Nha Trang - Dꦡaklak chứ đi đường ngắn thì chiếc xe nhỏ của vợ tôi không thể vượt qua các ổ voi ở Bình Phước - Dak Nông.
Nhưng, một khi hai loại phí kia có hiệu lực thì tôi khó mà bán được xe, ngoài ra mình cũng không muốn đổ khó khăn cho người khác, chi bằng tiêu hủy luôn cái xe cũ này cho hả lòng. Chúng ta không sợ nghèo, chỉ sợ không công bằng. Chúng ta không ngại khổ, chỉ lo lòn꧂g người bất an.
Bài toán công bằng cho phí lưu thông
Gộp chung phí lưu hành xe🐽 và phí bảo trì đường bộ gọi là phí lưu thông ôtô
Phí giao thông ⛦(P) trong một tháng/quí/năm chỉ được xem là tương đối công bằng khi:
P: tỷ lệ thuận với số km đã đi, Pkm
P: tỷ lệ thuận với⛦ diện tích chiếm đường (chiếm chỗ), 👍Pdt
P: tỷ lệ thuận với trọng lượng toàn tải, Ptl
P: Phụ thuộc vào các loại đường, Pdg
P: Phụ thộc vào từng thời điểm giao thông, Ptg
P:💦 Phụ thuộc vào phí cục bộ đ🌠ịa phương / khu vực, Pkv
Pdt và Ptl là thuộc tính của xe nên gộp lại thành Pxe
Vậy, trong một đoạn đường giao thông rℱiêng biệt thì phí lưu thông sẽ là
P(i) = H x Pxe ꦇx Pk🐓m(i) x Pdg(i) x Ptg(i) + Pkv(i) x Ptg(i)
Và, trong một tháไng / quý / năm thì phí giao thông sẽ là
P = sum [P(i)]
Diễn giải:
H là số tiền phí (đơn vị là đồng) cho mỗi km đường. Ví dụ, một chiếc xe du lịch 4 chỗ chạy trên đường quốc lộ 1 vào ban ngày sẽ trả phí là 100 đồng cho mỗi 1 km, khi đó H là 10🉐0
Pxe = K x Pdt x Ptl, K là hệ số và có giá trị sao cho một chiếc toyota altis (loại được xem là phổ 🐭thông hạng trung)𝓀 sẽ có Pxe bằng 1.
Xe Altis 1,7 tấn (toàn tải bình quân) và có diện tích 1.8m x 4.6m,ꦑ được xem là có Pxe = 1. Do đó K = 1 / (1.8 x 4.6 x 1.7) = 0.07.
Theo đó, xe Landcruiser, 7 chỗ 2,5 tấn có diện tích 2m x 5m, sẽ có Pxe = K x 9.6 x 1.5 = 1.75. Điều này nói lên rằng xe to nặng sẽ trả phí lưu thông nhiều hơn. Đối với xe cá nhân và xe tải, chỉ sꩵố Pxe có giá trị tỷ lệ tuyến tính theo trọng lượng và ♍kích thước xe.
Đối với các loại xe khác, chỉ số Pxe có thể ấn định theo chức năng của xe và không nhất thiết tỷ lệ tải trọng và kích thước. Ví dụ, với mục tiêu ưu tiên giao thông xe buýt thì xe khách 30 chỗ có thể chỉ có chỉ số Pxe bằng hoặc🎃 nhỏ hơn xe ô tô cá nhân bốn chỗ.
Pkm như đã nói là số km xe chạy.
Pdg là chỉ số về loại đường: Ví dụ đường quốc lộ 1 Pdg = 1; đường HCM Pdg = 0.5; đường cao tốc Pdg = 1.5. đường phố Hà Nội Pdg=2. Pdg được định lượng dựa trên tính quan trọng của đường và lượng xe tham gia lưu thông, nếu mật độ xe dày thì Pdg cao. Ví dụ, đường quốc lộ 1 Pdg = 1 nhưng💃 đoạn Dầu Giây - Cầu Sài Gòn có Pgd = 1.5.
Ptg là chỉ số thời điểm tham gia lưu thông. Ptg áp dụng cho từng♍ loại đường theo từng thời điểm. Ví dụ: đường ꦛphố, giờ bình thường ban ngày Ptg = 1, giờ cao điểm Ptg = 1.5, đêm khuya Ptg = 0.2. Ví dụ khác, tất cả đường liên tỉnh có Ptg=1
Pkv là phí cục bộ địa phương chỉ áp dụng cho thu phí cầu, phà, hầm🐟 và các khu vực hoặc đường có mật độ xe tham gia lưu thông cao. Ví dụ khi đi vào Quận 1 HCM giờ cao điểm, các xe phải trả phí khu vực là Pkv=5 ngàn đồng (Ptg=1) và nếu vào giờ đêm khuya sẽ là 1 ngàn đồng (Ptg=0.2).
Ví dụ một lộ trình:
Một xe Landcruiser từ Vũng Tàu đến trường đại học Khoa học tự nhiên TP Hồ Chí Minh theo lộ trình: Vũng Tàu - Ngã Ba Vũng Tàu (S1 ൩= 90km, giờ bình thường, QL51: Pdg=1); Ngã Ba Vũng Tàu - Hàng Xanh (S2 = 25km, giờ bình thường, QL1: Pdg=1.5); Hàng Xanh ൩- Xô Viết Nghệ Tĩnh - Nguyễn Thị Minh Khai - Ngã 6 Cộng Hòa (S3 = 10km, giờ cao điểm: Ptg=1.5, đường phố: Pdg=2, Pkv=5.000).
P(1)= H x Pkm(1) x Pxe x Pd💝g(1) x Ptg(1) + Pkv(1) x Ptg(1) = 100 x 90 x 1.75 x 1 x 1 + 0 x 1 = 15.750 đ
P(2)= H x Pkm(2) x Pxe x Pdg(2) x Ptg(2) + Pkv(2) x Ptg(2) = 100 x 25 x 1.75 x 1.𝕴5 x 1 + 0 x 1 = 6.562,5 đ
P(3)= H x Pkm(3) x Pxe x Pdg(3) x Ptg(3) + Pkv(3) x Ptgไ(3) = 100 x 10 x 1.75 x 2 x 1.5 + 5.000 x 1.5 = 12.750 đ
P = P(1) + P(2) + P(3) = 37.562.5 đ
Như vậy giao thông trong khu vực Q.1, HCM giờ cao điểm với một đoạn 10 km có phí lưu thông (12.750 đ) gần bằng 70 km đường QL51. Nếu cũng quãng đường 10 km và﷽o giờ cao điểm ở Q. 9❀ thì phí sẽ là 5.250 đ (tiết kiệm 7.500 đ do phí khu vực).
Giải pháp nhiều trong một: Hệ thống thu phí thông minh
Theo như phân tích ở trên, với mỗi chiếc xe tham gia lưu thông thì gần như phải có một kế toán viên thông hiểu mọi quy định về cung đường, khu vực, giờ cao điểm thì mới có thể tính được phí trong khi xe thꦺì cứ bon bon.
Giải pháp chỉ có thể là hệ thống định vị GPS. Giống như mạng điện thoại di động, mỗi 𒅌xe ôtô sẽ trang bị hệ thống định vị GPS cùng với một tài khoản lưu thông ôtô trong ngân hàng - gọi là “SIM ôtô꧑”.
1. Đầu tư:
Người chủ phương tiện (ôtô):
- Trang bị hệ thống định vị GPS cho ôtô của mình. GPS chỉ là thiết bị chíp điện tử nhằm thông báo đến tổng đài về vị trí và thời điểm của phương tiện. Hệ t🌜hống này không nhất thiết phải bao gồm màn hình hiển thị thông tin và cảm ứng tương tác. Các xe taxi có thể trang bị màn hình thông báo cho khách về phí khu vực, Pkv.
- Có trácꦓh nhiệm đảm bảo duy trì tài khoản lư𓄧u thông ôtô của phương tiện luôn dương.
Nhà nước: Dĩ nhiên nhà nước phải đầu tư cùng người dân thì mới mong thu được phí một cách hài hòa. Chứ không lẽ cứ ra nghị định, thông tư là thu được tiền sao?
- Thành lập ngân h๊àng giao thông để quản lý toàn bộ tài kho𝔍ản giao thông.
- Đảm bảo hệ thống GPS hoạt động hiệu quả.
- Đầu tư các cổng quét kiểm soát “SIM ôtô”. Trang bị cho nhân viên thanh tra giao thông các thiết bịಌ quét “SIM ôtô” cầm tay.
- Đầu tư hệ thống t𓆉hu thập dữ liệu, tính tiền và xuất hóa đơn cho chủ phương tiện.
2. Vận hành hệ thống:
Người⛦ chủ phương tiện nạp tiền vào tài khoản lưu thông ôtô của mình thông qua nhiều hình thức của giao dịch ngân hàng thậm chí là thẻ cào.
Tài khoản của SIﷺM ôtô sẽ được tính lãi suất do Nhà nước quy định. C🦂hủ phương tiện có thể nạp lượng tiền lớn và dùng tiền lãi để trả phí.
Khi m🅠ột ôtô lưu thông trên đường, ꦺhệ thống ghi tại tổng đài sẽ tính tiền cho mỗi đơn vị lấy mẫu theo công thức:
P = H x Pxe x Pkm x Pdg x Ptg + Pkv x Ptg
Trong đó, Pxe là thông tin thu thập một lần khi chủ phương tiện khai báo và đăng ký tài khoản lưu thông ôtô. H, Pkv, Ptg và Pdg, là do Bộ GTVT hoặc địa phương phê duyệt. Như vậy hệ thống lấy thông tin 🌃chỉ thu thập số km và thời điểm xe chạy.
Hiện nay hệ thống GPS cho phép cập nhật vị trí🃏 phương tiện đến từng mét. Tuy nhiên, với mục đích tính cước phí lưu thông và nhằm giảm lượng xử lý dữ liệu thì tần suất lấy mẫu thông tin vị trí chỉ cần chính xác đến hàng km cho ngoại ô và hàng trăm mét cho đô thị.
3. Kiểm soát phí:
Khi một ôtô chạy ngang qua một cổng qué🧜t ꦏtài khoản “SIM ôtô”, nhân viên kiểm tra tải khoản sẽ nhận được tất cả mọi thông tin về tài khoản của xe và cả thông tin việc kiểm định và bảo hiểm.
Nếu xe chưa trang bị “SIM” hoặc tài khoản âm, ngay lập tức nhân viên này thông 🍒báo cho TTGT gần đó xử lý. Thậm chí nhân viên kiểm tra tải khoản không cần nhìn đó là xe gì cũng thông báo được cho TTGT loại xe, bꦐiển số, màu xe.
Hệ thống thu 🀅thập thông tin tại tổng đài sẽ tính tiền cho mỗi đơn vị lấy mẫu theo công thức:
P = H x Pxe x Pkm x Pdg x Ptg + Pkv x Ptg
Trong đó, Pxe là thông tin thu thập một lần khi chủ p💞hương tiện khai báo và đăng ký tài khoản lưu thông ôtô. Pdg là do Bộ GTVT phê duyệt cho từng loại đường đã được mã hóa. H, Pkv, Ptg, là do Bộ GTVT hoặc địa phương phê duyệt. Như vậy hệ thống lấy thông tin chỉ thu thập số km và thời điểm xe chạy.
Chính phủ và địa phương sử dụng các chỉ số H, Pdg,ꦅ Ptg, Pkv để làm công cụ điều tiết chủ động lưu thông bằng cách thông báo trước cho chủ phương tiện.
Ví dụ, các ngày lễ tết thì đường QL51 thường kẹt xe, Ch🍨ính phủ có 🅘thể tăng giá trị Pdg trong ngày lễ nhằm làm giảm lượng phương tiện từ HCM đến Vũng tàu. Ví dụ, TP HCM có thể tăng phí khu vực Pkv cho vùng Quận 1 vào các ngày lễ Giáng sinh.
Ví dụ khác, Bộ GTVT muốn san sẻ lượng phương tiện vào đường HCM thay vì có mật độ quá cao ở đường QL1 thì giảm Pdg của đường 🔥HCM xuống thấp có thể, đồng thời tăng Pdg của đường QL1. …
4. Lợi ích của Hệ thống thu phí thông minh:
Có thể kể ra một số lợi ích từ hệ thống như sau:
- Người chủ phương tiện chủ động đóng phí trả trước thông qua giao dịch🐻 nhân hàng hoặc mua thẻ cào.
- Tài khoản phí lưu🐬 thông được dùng trả phí đăng kiểm và bảo hiểm phươ𒅌ng tiện và có thể cả việc gửi xe.
- Xóa bỏ các trạm bán vé thu phí trên đường. Giảm lượng lao động thu phí và giảm đầuꦗ tư xây dựng các trạm hoành thu phí hoành tráng như trước đây. Chủ động bố trí khu vực thu phí thông qua bản đồ địa lý số hóa.
- Thu được phí một cách công bằng và chống thất thoát. Nhân viên kiểm soát hoàn to🍬àn tự nhiên mặc “áo quần có túi” đến làm việc tại các trạm quét 𓆉kiểm soát tài khoản ôtô.
- Việc mua bán ôtô sẽ được sang tên rõ ràn💦g vì người chủ trước không muốn trả phí cho người chủ sau. Theo đó, Nhà nước thu được toàn bộ phí tước bạ.
- Nhà nước kiểm soát được việc thu phí lưu hành cho 𓂃từng đoạn đường. Từ đó kiểm soát được quá trình đầu tư BOT.
-🍷 Do lượng ký gửi đóng phí trả trước là lớn nên Bộ GTVT dùng khoản tiền này (hàng ngàn tỷ) cho kinh doanh tài chính.
- Người chủ phương tiện sử dụng hóa đơn thu phí từ Ngân hàng cho mục♌ đích quyết toán kinh doanh.
- Không ܫphải dừng xe để mua vé thu phí. CSGT không phải dừng xe để kiểm tra việc kiểm định và bảo hiểm phương tiện.
- Dùng các chỉ số H, Pdg, Ptg, Pkv để ra chính sách giao thông cho các vùng♒ miền.
- Chủ động điều tiết lưu thông khi biết được lượng phương tiện vào ra trên mỗi đoạn đường, khu vực. Theo đó, chủ động giảm thiểu ùnꦓ tắc giao tꦐhông.
5. Tính khả thi
Chi phí trang bị ♑một lần cho thiết bị GPS đối với chủ phương tiện là quá rẻ so với đóng phí một cục cho mỗi năm như🍌 dự thảo các loại phí hiện hành. Việc thu phí một cách tương đối khoa học và công bằng sẽ luôn được người dân vui vẻ ủng hộ.
Đối với Nhà nước, đòi hỏi đầu tư một một cách đồng bộ cho hệ thống kiểm s♋oát và xử lý số liệu có thể cần một lượng tiền lớn. Tuy nhiên hoàn toàn có khả năng khi mà công nghệ thông tin ngày 🎃nay là quá mạnh so với cách đây 15 năm, khi mà một số nước đã vận hành hệ thống thông minh này.
Các nhà mạng điện thoại và internet hàng ngày xử lý rất tốt thông🍸 tin cước cho hàng chục triệu điện thoại, thì việc xử lý thông tin tính phí cho một vài triệu ôtô có lẽ không phải ꦫquá khó.
Một khi Nhà nước và người dân đ🐷ồng thuận cùng làm thì mọi khó khăn đều được giải quyết. Chúng ta không sợ ng🌳hèo, chỉ sợ không công bằng. Chúng ta không ngại khổ, chỉ lo lòng người bất an.
Đào Hữu Xuân