Biến cố lớn nhất của cuộc đua diễn ra ở vòng 64. Norris chạy thứ hai, tấn công từ ở làn đường bên ngoài, và Verstappen phòng thủ bằng cách áp sát chiếc MCL38 khi cả hai đi vào góc cua. Cuối cùng, cả hai xe va chạm vào nhau và đều bị hỏng lốp. Chiếc RB20 bị hỏng ở lốp phía sau bên trái, còn Norrಌis ở phía sau bên phải. Từ lúc này, dù vẫn còn 7 vòng, 🅘chiến thắng đã tuột khỏi tay hai tay đua.
Verstappen thủng lốp, nhưng vẫn sớm giảm tốc và cố gắng đưa xe về thay lốp. Chiếc RB20 không bị hư hại quá nhiều vì lốp của anh vẫn còn khá nguyên vẹn. Nhưng lốp xe của Norris bị bung ra khỏi vành và xé ♛toạc phần thân sau của của chiếc MCL38, và McLaren buộc phải cho xe dừng đua để về pit sửa chữa, trước khi quyết định bỏ cuộc.
Sau va chạm giữa hai tay đua dẫn đầu, người chạy thứ ba George Russell vươn lên dẫn đầu,✤ rồi về nhất. Đây mới là chiến thắng đầu tiên của Mercedes kể từ sau Grand Prix Brazil 2022, nơi mà tay đua trẻ người Anh khi đó đã lần đầu về nhất trong một chặng đua F1. Ở những vòng đua cuối cùng tại Red Bull Ring, Russell chịu áp lực từ Oscar Piastri (đội McLaren) do thua kém về lốp, nhưng vẫn có thể duy trì khoảng cách an toàn cho đến khi đoàn đua về đích.
Vị trí còn lại trong top 3 thuộc về Carlos Sainz của Ferrari. Tay đua người Tây Ban Nha về đíc𒐪h ngay trước lão tướng Lewis Hamilton của Mercedes, người về thứ tư mặc dù bị phạt 5 giây vì cán vạch trắng ở lần vào pit đầu tiên. Tất cả đều có một chặng đua với thành tích hơn cả ước muốn, do Verstappen - Norris - hai tay đua dẫn đầu phần lớn thời gian - va chạm nhau ở những vòng cuối cùng.
Trước va chạm nặng nhất ở vòng 64, đã có nhiều pha đua tranh quyết liệt và gây tranh cãi, kéo dài tới hơn 10 vòng giữa Verstap๊pen lẫn Norris, và cả hai liên tục phàn nàn về cách đua của đối thủ. Họ đều nóng máu và háo thắng và liên tục xử lý tiểu xảo, nguy hiểm. Sau tình huống va chạm cuối cùng, Verstappen bị phạt 10 giây vì gây ra va chạm🐟 với Norris khi đối thủ đang cố gắng vượt qua. Trước đó, Norris cũng bị phạt 5 giây do liên tục vi phạm giới hạn đường đua.
Tuy nhiên, án phạt có phần chậm trễ và khá nhẹ của các trọng tài khiến hai cái đầu nóng không kịp thời hạ hỏa. Tuy nhiên, Norris là người thiệt hại nặng nề nhất khi trắng tay tại cuộc đua tối Chủ nhật. Trong khi đó, dù phải về pit thay lốp ở những vòng cuối, Verstappen vẫn về đích ở vị trí thứ năm. Khoảng cách giữa tay đua người Hà Lan với đối thủ đứng sau lúc đó là Nico Hulkenberg quá xa, nên án phạt 10 giây với Verstappen không ảnh🅺 hưởng đến kết quả.
Chặng đua khởi đầu yên ả khi Verstappen với lợi thế xuất phát đầu sớm kiểm soát đoàn đua và dần dần nới rộng khoảng cách với tay đua chạy ngay sau là Norris. Tuy nhiên, tới vòng 40, tay đua Hà Lan꧃ bắt đầu phàn nàn với đội nhà về tình hình lốp đang nhanh chóng xuống cấp. Khoảng cách lúc này giữa Verstappen và Norris 💙là gần 9 giây.
Dù vậy, mãi tới ꦯvòng 51, Red Bull mới gọi Verstappen về thay lốp. Lúc này, khoảng cách giữa hai tay đua dẫ✅n đầu đã được thu hẹp xuống còn 7 giây. Lần về pit cuối của Verstappen thành thảm họa. Bánh sau bên trái của chiếc RB20 bị kẹt khi thay thế khiến tay đua người Hà Lan tiêu tốn thêm hơn 3 giây chờ đợi trong pit. Trong khi đó, Norris thay lốp cùng thời điểm và hoàn thành với thời gian hoàn hảo tầm hơn 2 giây.
Khi cả hai trở lại được đua sau lần thay lốp cuối, khoảng cách giữa hai xe chỉ còn 2,8 giây. Áp lực dồn mạnh lên vị trí dẫn đầu khi Norris đạt tốc độ tốt hơn với bộ 💧lốp trung bình mới, còn Verstappen dùng bộ lốp trung bình đã chạy 3 vòng tại các buổi đua thử và ph🍰ân hạng. Một pha mất lái của Verstappen khi vừa ra khỏi pit khiến khoảng cách bị giảm xuống còn chỉ hơn 1 giây.
Kể từ đó, hai tay đua chiến đầu quyết liệt tới cuối cuộc đua. N🅘orris có phần nóng vội, nên liên tục lách vào làn trong để vượt đối thủ, nên liên tục vi phạm giới hạn đường đua ở lối ra các góc cua tốc độ cao. Các trọng tài đã phải phát tín hiệu cờ đen trắng để cảnh cáo tay đua ngườ⛎i Anh không tái phạm.
Norris phàn nàn rằng Verstappen chơi xấu khi phanh gấp trong lúc bị tay đua người Anh tấn công tại Turn 3 ở vòng 55. Norris sau đó vượt qua ꦍRed Bull vào Turn 3 ở vòng 59, nhưng phải sớm trả lại vị trí do cua rộng ở bãi trống. Hành vi vi phạm giới hạn đường đua lần này khiến tay đua người Anh bị phạt 5 giây vì đã bị cảnh cáo trước đó.
Sau một pha tấn công áp sát khác bất thành ở Turn 3 và Turn 4, Norris chỉ trích Verstappen qua sóng radio rằng đối thủ đã liên tục chuyển làn khi phanh tại góc cua, hành động của Verstappen là xấu chơi. Căng thẳng lên đến đỉnh điểm với sự cố ở vòng 64 khiến cả hai mất vị t𒐪rí dẫn đầu, và phải ngậm ngùi♛ nhìn các đối thủ khác vượt lên chiếm trọng vị trí trên podium.
Sau chặng đua, Verstappen tỏ ra bình thản, nhưng nhiều chuyên gia chỉ trích tay đua người Hà Lan quá háo thắng và chủ động chơi xấu đối thủ. "Rõ ràng Verstappen vượt giới hạn và các quy tắc được viết rõ trong bộ luật thể thao F1. Red Bull Ring là một chặng đua rất khó để xử lý gọn gàng nhưng bạn vẫn phải chừa khoảng trống cho các đối thủ của mình, khi họ tiến vào góc cua, và Verstappenꦐ đã không làm điều đó", cựu tay đua F1 Jack Aitken nó🥂i.
Vị trí thứ năm khô🤪ng làm Verstappen hài lòng. Nhưng do h🔯ai đối thủ Charles Leclerc và Lando Norris đều không có điểm tại cuộc đua tối Chủ nhật, tay đua người Hà Lan vẫn nới rộng khoảng cách với vị trí thứ nhì lên tới 81 điểm sau Grand Prix Áo.
Kết quả cuộc đua chính thức Grand Prix Áo
Thứ tự |
Tay đua |
Đội |
Vị trí xuất phát |
Số lần về pit |
Fastest lap cá nhân |
Thành tích |
Điểm |
1 |
George Russell |
Mercedes |
3 |
2 |
1 phút 09,164 giây |
1 giờ 24 phút 22,798 giây |
25 |
2 |
Oscar Piastri |
McLaren |
7 |
2 |
1:08,697 |
+1,906 giây |
18 |
3 |
Carlos Sainz Jnr |
Ferrari |
4 |
2 |
1:09,282 |
+4,533 |
15 |
4 |
Lewis Hamilton |
Mercedes |
5 |
2 |
1:09,562 |
+23,142 |
12 |
5 |
Max Verstappen |
Red Bull |
1 |
3 |
1:07,719 |
+37,253 |
10 |
6 |
Nico Hulkenberg |
Haas |
9 |
2 |
1:10,215 |
+54,088 |
8 |
7 |
Sergio Perez |
Red Bull |
8 |
2 |
1:09,694 |
+54,672 |
6 |
8 |
Kevin Magnussen |
Haas |
12 |
2 |
1:10,125 |
+60,355 |
4 |
9 |
Daniel Ricciardo |
RB |
11 |
2 |
1:10,426 |
+61,169 |
2 |
10 |
Pierre Gasly |
Alpine |
13 |
2 |
1:09,609 |
+61,766 |
1 |
11 |
Charles Leclerc |
Ferrari |
6 |
4 |
1:09,584 |
+67,056 |
|
12 |
Esteban Ocon |
Alpine |
10 |
2 |
1:09,649 |
+68,325 |
|
13 |
Lance Stroll |
Aston Martin |
17 |
2 |
1:10,143 |
+1 vòng |
|
14 |
Yuki Tsunoda |
RB |
14 |
2 |
1:10,318 |
+1 vòng |
|
15 |
Alexander Albon |
Williams |
16 |
2 |
1:10,364 |
+1 vòng |
|
16 |
Valtteri Bottas |
Sauber |
18 |
2 |
1:10,449 |
+1 vòng |
|
17 |
Zhou Guanyu |
Sauber |
20 |
2 |
1:10,470 |
+1 vòng |
|
18 |
Fernando Alonso |
Aston Martin |
15 |
3 |
1:07,694 |
+1 vòng |
|
19 |
Logan Sargeant |
Williams |
19 |
3 |
1:10,406 |
+2 vòng |
|
20 |
Lando Norris |
McLaren |
2 |
3 |
1:08,016 |
Bỏ dở cuộc đua |
+) Fastest-lap: 1 phút 07,694 giây do Fernando Alonso (Aston Marrtin) lập tại vòng 70.
Bảng xếp hạng tay đua sau 11 chặng
Thứ tự |
Tay đua |
Đội |
Số lần nhất chặng |
Điểm |
1 |
Max Verstappen |
Red Bull |
7 |
237 |
2 |
Lando Norris |
McLaren |
1 |
156 |
3 |
Charles Leclerc |
Ferrari |
1 |
150 |
4 |
Carlos Sainz Jnr |
Ferrari |
1 |
135 |
5 |
Sergio Perez |
Red Bull |
118 |
|
6 |
Oscar Piastri |
McLaren |
112 |
|
7 |
George Russell |
Mercedes |
1 |
111 |
8 |
Lewis Hamilton |
Mercedes |
85 |
|
9 |
Fernando Alonso |
Aston Martin |
41 |
|
10 |
Yuki Tsunoda |
RB |
19 |
|
11 |
Lance Stroll |
Aston Martin |
17 |
|
12 |
Nico Hulkenberg |
Haas |
14 |
|
13 |
Daniel Ricciardo |
RB |
11 |
|
14 |
Oliver Bearman |
Ferrari |
6 |
|
15 |
Pierre Gasly |
Alpine |
6 |
|
16 |
Kevin Magnussen |
Haas |
5 |
|
17 |
Esteban Ocon |
Alpine |
3 |
|
18 |
Alexander Albon |
Williams |
2 |
|
19 |
Valtteri Bottas |
Sauber |
||
20 |
Logan Sargeant |
Williams |
||
21 |
Zhou Guanyu |
Sauber |
Bảng điểm đội đua đua sau 11 chặng
Thứ tự |
Đội |
Số lần nhất chặng |
Điểm |
1 |
Red Bull |
7 |
355 |
2 |
Ferrari |
2 |
291 |
3 |
McLaren |
1 |
268 |
4 |
Mercedes |
1 |
196 |
5 |
Aston Martin |
58 |
|
6 |
RB |
30 |
|
7 |
Haas |
19 |
|
8 |
Alpine |
9 |
|
9 |
Williams |
2 |
|
10 |
Sauber |
Minh Phương