Hơn 300 năm trước, vào triều đại nhà Thanh của Trung Hoa, phụ mẫu của một vị ﷺquan huyện mắc chứng bệnh lạ. Bà ho dòng dã ngày này tháng khác mà không khỏi, mặc cho vị quan mời đến các danh y cùng nhiều phương thuốc quý. Bà mẹ mỗi ngày một gầy yếu, xanh xao, tính mệnh như ngọn đèn dầu trước gió.
Thương mẹ, vị quan khóc lóc thảm thiết, tự trách mình đã bất lực trước꧙ cảnh nguy nan. Tấm lòng hiếu thảo của vị quan huyện truyền đến tai một vị thần y ở vùng núi cao. Ông mai danh ẩn tích đã lâu, quanh năm làm thuốc cứu người. Nghe tin về một vị quan thanh liêm, chính trực lại hiếu thuận với cha mẹ, ông cảm kích, tự tìm đến mong được cứu giúp.
Vị thần ওy đã dùng 15 loại thảo mộc thu hái từ vùng núi cao nơi ông sinh sống, sắc thành cao cho bà uống. Bà kiên trì uống thuốc, dần khỏi bệnh, da dẻ hồng hào, tươi nhuận. Cắt nghĩa bài thuốc, thần y cho biết: người bệnh gầy yếu, ho lâu ngày là bệnh thuộc chứng hư. Khí hư uất kết trong người sinh ra đờm tụ ở phế, lại gặp khí nghịch lên mà gây thành ho, lâu ngày khiến phế ung, lại sinh đờm đặc, nên bệnh cứ luẩn quẩn. Ph🌳ối hợp các thảo mộc sẽ có tác dụng thanh phế, làm tan được đờm tụ, trừ được nhiệt độc, hóa đàm, chỉ khái, cùng với các vị thuốc bồi bổ tỳ, vị, nhuận phế khí nhanh chóng lấy lại sinh lực, bệnh tình tự tiêu tán…
Bài thuốc có tên là Xuyên bối tỳ bà cao với 2 vị thuốc chính yếu là Xuyên bối mẫu và tỳ bà diệp, kết hợp cùng hơn chục vị thuốc khác. Sau đó, bài thuốc đã được lưu truyền khắp dân gian để trị ho và qua hàng trăm năm lịch sử. Khi khoa học kỹ thuật phát triển, bài thuốc lại khẳng định công dụng qua các nghiên cứu y học hiện đại, được đưa vào dược điển, trở thành bài thuốc chính thống, từ đó làm cơ sở cho🧜 nhiều công ty dược phát triển thành các sản phẩm thuốc trị ho.
Xuyên bối tỳ bà cao kết hợp 15 vị thảo mộc, theo nguyên lý trị bệnh của y học cổ truyền, trên cơ sở những hiểu biết về học thuyết âm dương, ngũ hành và phép biện chứng luận trị sâu sắc. Nói cách khác, 15 vị thảo mộ🏅c, mỗi vị đều có một tác dụng riêng, nhưng khi phối hợp với nhau thì cùng hiệp đồng tác dụng, hỗ trợ nhau, để làm mạnh công năng chính của bài thuốc. Đó là trừ ho, bổ phế, hóa đàm, đồng thời, kiềm chế được những tác dụng bất lợi, mang lại sự an toàn cho người bệnh.
Khi du nhập vào Việt Nam, Xuyên bối tỳ bà cao đã được các thầy thuốc Đông y Việt Nam gia giảm thêm các vị thuốc sao cho phù hợp với đặc điểm khí hậu, sinh học con người và kinh nghiệm trị bệnh ở Việt Nam. Trong đó, đáng kể nhất là việc gia thêm hai vị thuốc dân gian ô mai và mật ong đã làm mạnh thêm công hiệu bổ phế, trừ ho, hóa đàm. The🦩o Đông y, ô mai kích thích sinh tân dịch, liễm phế. Hải Thượng Lãn Ông quy ô mai vào bổ kim. Trong ngũ hành, phế thuộc kim. Vì vậy, ô mai sử dụng trong các chứng bệnh ở phế là đúng theo phương pháp biện chứng luận trị của Đông y. Còn mật ong là phương thuốc được sử dụng từ hàng nghìn nă🌄m trước với nhiều công dụng như bồi dưỡng cơ thể, giúp ăn ngon, ngủ tốt, trừ ho, kháng khuẩn, mau lành vết thương… Hải Thượng Lãn Ông sử dụng mật ong trong nhiều phương thuốc chữa ho, có cả chữa ho lao, gọi là Cam lộ thần cao.
Sự kết hợp ô mai, mật ong và bài thuốc Xuyên bối tỳ bà cao, cùng với quy trình bào chế hiện đại đã tạo ra thuốc ho༒ Bảo Thanh, có đồng thời cả ba công năng bổ phế, trừ ho, hóa đàm. Sản phẩm điều trị hiệu quả các chứng ho: ho khan, ho có đờm, ho do lạnh, ho do nhiệt, các trường hợp phế âm hư, gây ho dai dẳng lâu ngày, miệng họng khô, cổ họng ngứa, nóng rát…
Ngọc Bích