Khi USD giảm giá, thanh khoản ồ ạt chảy vào các thị trường mới nổi, thúc đẩy tăng trưởng và giá tài sản. Nhưng khi đảo chiều, USD lại trở thành thỏi nam châm hút hết các khoản đầu tư mà nh🦩ững thị trường này đang cần.
Nhà phân tích William Pesek nhận định USD đang ở chu kỳ "siêu tăng giá" thứ 3 trong 30 năm. Vì vậy, các thị trường mới nổi có nhiều lý do để lo lắng. Kể từ khủng hoảng toàn cầu năm 2008, các khoản vay bằng USD của khối phi ngân hàng tại châu Á đã tăng từ 6.000 tỷ lên 9.000 tỷ USD hiện tại, tương đương tổng sản phẩm quốc nội (GDP) mà Trung Quốc làm ra hàng năm. Các công ty Trung Quốc đóng♓ góp ít nhất 1.100 tỷ USD trong số vay nợ này.
Tại các nền kꦚinh tế mới nổi có nội tệ biến động mạnh như Ấn Độ hay Malaysia, phát hành nợ niêm yết bằng USD có thể sẽ vẫn là chiến lược khôn ngoan. Nhưng trong bối cảnh USD tăng 23% so với euro và 13% so với yen Nhật từ đầu năm ngoái, và Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED) chuẩn bị tăng🌄 lãi suất, người đi vay sẽ gặp khó khăn hơn trong việc trả nợ cũ, chứ chưa nói tới nợ mới.
Dù vậy, điều may mắn là châ👍u Á có vẻ đã chuẩn bị tốt để chống chọi với biến động tiền tệ so với năm 1997. "Mọi người đang lo lắng dõi theo đà tăng của đôla Mỹ. Nhưng lần này hoàn toàn khác trước đây. Nhiều nền kinh tế châu Á đã tăng trưởng ngoạn mục từ thu nhập thấp lên thu nhập trung bìn൲h và thậm chí là cao kể từ năm 1997", chuyên gia kinh tế Glenn Maguire tại ANZ Singapore nhận định.
Maguire có nhiều lý do để lạc quan. Nhìn chung, tiền tệ châu Á không còn neo vào USD nᩚᩚᩚᩚᩚᩚᩚᩚᩚ𒀱ᩚᩚᩚhư trước. Cán cân thanh toán không đáng lo ngại như vài chục năm trước và nhiều nước cũng có dự trữ ngoại hối dồi dào. Lĩnh vực ngân hàng đã mạnh mẽ hơn và các ngân hàng trung ương cũng minh bạch hơn trước đây.
Tuy nhiên, nếu các nền kinh tế mới nổi bị cuốn vào cơn hỗn loạn hiện nay, châu Á sẽ không còn miễn nhiễm với khủng hoảng. Hãy nhớ rằng, năm 2013, khi FED lần đầ𒅌u tiên đề cập đến giảm kích thích, nội ✃tệ của Ấn Độ và Indonesia đã rất nhanh chóng rơi tự do.
Châu Á có thể sẽ hối tiếc khi nợ bằng USD trong khu vực phi tài chính ở mức cao. Giữa năm 2014, tỷ lệ nợ bằng USD của khu vực này ở mức 10% GDP, gần bằng 11% của năm 1997. Điều này đang "làm dấy lên một mối nguy tiềm ẩn mới" khi FED tăng lãi suất, Callum Henderson – Giám đốc N൩ghiên cứu Ngoại hối Toàn cầu của Standard Chartered Singapore cho biết.
Trong vài tuần gần đây, Ngân hàng♌ Trung ương Ấn Độ, Thái Lan, Hàn Quốc đã khiến thị trường kinh ngạc với quyết định giảm lãi suất. Nhưng 𒆙châu Á sẽ không thể giảm lãi suất thêm nữa nếu tính ra số người vay trong nước sẽ vỡ nợ nếu nội tệ giảm quá sâu. Điều này đặc biệt đúng với Trung Quốc.
Trong một bài báo mới đây, hai chuyên gia kinh tế Tom Orlik và Fielding Chen của Bloomberg đã nhận định: "Sức mạnh của đồng đôl𝓰a Mỹ là điểm yếu của Trung Quốc". Họ cho rằng NDꦕT yếu đi "sẽ tăng số nợ phải trả, đồng thời gia tăng áp lực tài chính cho các công ty đi vay".
Henderson cho biết ngân hàng trung ương các nước châu Á đang khuyến khích doanh nghiệp 🌜giảm bớt nợ bằng USD hoặc có biện pháp chuẩn bị trước khi FED tăng lãi suất. Tuy nhiên, kể cả khi nền tảng kinh tế mạnh hơn như hiện nay, dòng vốn tháo chạy khỏi thị trường cổ phiếu, trái phiếu châu Á cũng sẽ tạo ra những thách thức lớn về quản trị.
Pesek cho rằng cả ngân hàng trung ương và nhà hoạch định chính sách nên chủ động tìm giải pháp ổn định nền kinh tế. Điều đó có nghĩa các nước này cần áp dụng các biện pháp vĩ mô thận trọng, bao gồm việc hạn chế lưu chuyển vốn để tránh khủng hoảng. Chính phủ các nước cũng phải thu hẹp thâm hụt vãng lai hơn nữa và tăng thặng dư. Họ cần chuẩn bị các gói kích thích tài khóa khẩn cấp, nhưng đồng thời cũng phải tập trung đầu tư để tăng sản lượᩚᩚᩚᩚᩚᩚᩚᩚᩚ𒀱ᩚᩚᩚng và tính cạnh tranh. Trong dài hạn, điều này sẽ giúp nền kinh tế bớt phụ thuộc vào nợ và vốn nước ngoài.
Có thể câu chuyện năm 1997 sẽ k🦩hông lặp lại tại châu⛦ Á. Nhưng khu vực này có cả nghìn lý do để chuẩn bị trước khi tình hình trở nên tồi tệ.
Thanh Tuyền (theo Bloomberg)