Theo bác sĩ Nguyễn Tấn Thủ, đường lây truyền từ mẹ sang con là nguyên nhân chính gây nhiễm HIV trên trẻ em. Khả năng lây nhiễm tự nhiên của đường truyền này khoảng 35-40%. Như vậy, nếu không có can thiệp y tế nào, cứ 10 bà mẹ nhiễm HIV sinh con thì có 3-4 trẻ em bị lây nhiễm. Tuy nhiên, nếu áp dụng biện pháp dự phòng, tỷ l🌺ệ lây nhiễm giảm xuốn꧋g còn khoảng 5%.
Biện pháp can thiệp dự phòng bao gồm điều trị ꦓARV cho bà mẹ, bắt đầu từ tuần thai thứ 14 (hoặc duy trì điều trị nếu mẹ được chỉ định điều trị trước đó) kéo dài đến lúc sinh con. Sau đó tiếp tục điều trị ARV cho đứa con tr💜ong vòng một tháng đầu, đồng thời không cho trẻ bú sữa mẹ. Như vậy, đối tượng chăm sóc của phương pháp này bao gồm cả bà mẹ mang thai và em bé với sự tham gia của chuyên khoa phụ sản và chuyên khoa nhi.
Hiện ngành y tế nước ta đã triển khai xét nghiệm sàng lọc HIV rộng rãi cho tất cả các bà mẹ đến khám thai lần đầu ở cơ sở y tế. Các bác sĩ sẽ tư vấn và chuyển ൩gửi đến cơ sở điều trị lây truyền mẹ sang con nếu phát hiện thai phụ dương tính với HIV.
Để bảo vệ bản thân trước nguy cơ lây nhiễm đáng tiếc, bác sĩ khuyên mọi người nên:
1. Quản lý hành vi nguy cơ
Đây được xem là biện pháp then chốt trong dự phòng HIV/AIDS. Hai đường lây nhiễm quan trọng và phổ biến là quan hệ tình dục không an toàn và tiêm chích chung kim. Do đó cần trang bị kiến thức về tình dục an toàn và h🥀ạn chế tối đa việc chia sẻ kim tiêm và dun🌞g dịch pha tiêm với bạn chích chung.
2. Xét nghiệm HIV
Việc tham gia xét nghiệm mang lại những tác động tích cực: Nếu âm tính, tham vấn viên có thể cung cấp thêm kiến thức, chia sẻ về biện pháp cũng như hỗ trợ khách hàng xây dựng kế hoạch quản lý hành �𝕴�vi nguy cơ. Nếu dương tính, người♒ bệnh có cơ hội tiếp cận với chương trình điều trị sớm, từ đó đảm bảo và nâng cao chất lượng cuộc sống.
ܫ3. Điều trị dự phòng sau phơi nhiễm (Post exposure prophylaxis – PEP)
Đây là biện pháp giảm nguy cơ nhiễm HIV nhờ tác dụng của thuốc kháng virus ARV. Nhiễm HIV không xảy ra ngay lập tức trên toàn hệ thống, mà có một thời gia🧸n trì hoãn ngắn kéo dài khoảng 2-3 ngày sau khi phơi🌜 nhiễm với HIV. Trong giai đoạn “cửa sổ cơ hội” này, thuốc kháng virus có thể phòng ngừa bằng cách khống chế sự sinh sản của HIV, cô lập và đào thải nhữ❀ng tế bào đã bị nhiễm HIV ra ༺khỏi cơ thể.
Những nghiên cứu khoa học thực nghiệm cho thấy phương pháp này bảo vệ cơ thế đến 90-95%. Hiệu quả của phương pháp này giảm dần theo thời gian, gần như không còn giá trị nếu sử dụng sau 72 giờ. Như vậy, phương pháp này sử dụng trong những tình huống mới phơi nhiễm với HIV: quan 🍃hệ tình dục không bao cao su, bị rách 🃏bao khi quan hệ, bị kim đâm…
4. Điều trị dự phò♕ng trước phơi nhiễ🍎m (Pre exposure prophylaxis – PrEP)
Phương pháp điều trị dự phòng trước phơi nhiễm đòi hỏi người sử dụng phải uống ARV hàng ngày. Biện pháp này nhằm mụ💃c đích duy trì nồng độ ꦺARV trong máu ở mức có hiệu quả bảo vệ khỏi sự xâm nhập của HIV. Nghiên cứu lâm🅠 sàng cho thấy hiệu quả bảo vệ dao động từ 🐼khoảng 45-60%, có thể đạt đến 70-80% nếu tuân thủ nghiêm ngặt.
Phương pháp này chưa được triển khai rộng rãi ở Việt Nam. Ở quốc gia phát triển như Mỹ có áp dụng phương pháp này nhưng chỉ ൩tập trung trên những nhóm nguy cơ cao như nam quan hệ đồng giới, người hành nghề mại dâm, bạn tình âm tính của người có H... Đây được xem là một lựa chọn man🔜g tính cá nhân bên cạnh biện pháp quản lý hành vi nguy cơ vốn đơn giản hơn và có chi phí thấp hơn nhiều.
5. Điều trị như là một biện pháp dự phòng
Việc điều trị ARV cho người bệnh giúp khống chế tốt tải lượng virus HIV trong máu, làm giảm đá🍌ng kể nguy cơ lây nhiễm HIV sang người khác.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới, tiêu chuẩn bắt đầu điều trị ARV đượꦛc nâng từ chỉ số CD4 > 350 tế bào/mm3 thành 500 tế bào/mm3. Tổ chức này cũng đưa ra chỉ định ༺điều trị cho những người nhiễm có bạn tình âm tính.
Như vậy, bên cạnh việc đảm bảo sức khỏe và nâng cao chất lượng cuộc sống, người nhiễm HIV có thêm một mục đích để tham gia điều trị: Giảm nguy cơ lây nhiễm cho những người xung quanh, trước tiên là người thân trong gia đình. Song song với điều trị, người bệnh cũng được tham vấn để biết cách quản lý hành vi nhằm giảm thiểu nguy cơ lây nhiễm qua các tiếp xúc thân mật ở gia đ𓃲ình hay trong đời sống tình cả🧸m.
Thúy Ngọc