Khách sạn cách đồn cảnh sát tầm hai km. Tôi lang thang trong ngôi làng nhỏ đó, ăn đĩa cơm chiên ở nhà hàng vắng🤪 teo có nuôi một con mèo lười biếng lông xù. Tôi nghe tiếng ồn ào đằng xa, nên tranh thủ ăn thật nhanh rồi đến đó. Thì ra đám thanh niên làng đang trêu đùa một cô gái Tây mắt xanh tóc vàng. Tôi thấy cô ta mặc quần short, mang giày sandal và đeo ba lô, đoán là🍬 cô cũng đồng cảnh ngộ nên liền bắt chuyện. Cô ta là người Canada, làm việc ở Trung Quốc Đại Lục được bốn năm, thành thạo tiếng Hoa nên có thể nói chuyện với đám thanh niên làng.
T🐼ôi tranh thủ selfie gần đồn cảnh sát, nơi tôi sẽ phải ngủ lại đợi sáng mai bắt xe về Thành Đô. Mặt buồn vì chưa biết phải làm gì, nhưng thôi ăn cái đã, no bụng đầu sẽ sáng suốt hơn.
Tôi nảy ra ý định là nhờ cô ta hỏi trong đám trai làng có ai rảnh có thể làm tour guide chở tôi vào Larung tối nay, băng qua trạm kiểm soát, tôi sẽ trả thù lao. Sau khi suy nghĩ một hồi, một anh da ngăm mắt hí ra giá 300 tệ. Kỳ kèo qua lại một hồi, chúng tôi thống nhấ🐼t được mức giá 1.200 tệ cho cả chuyến đi ba ngày hai đêm. Anh ta sẽ chở tôi đi hết tất cả những địa điểm thú vị ở Larung mà anh biết. Tôi rủ cô nàng Canada đó đi chung với tôi, một là có người biết tiếng Hoa, hai là share chi phí sẽ tiết kiệm được một khoản cho cả hai. Nhưng cô ta từ chối vì sợ bị bắt và bị trục xuất khỏi Trung Quốc thì khốn. Vì cô ta da trắng tóc vàng thế này, bị phát hiện là cái chắc. Còn tôi thì da vàng tóc đen, nhìn xa xa tưởng người Trung Quốc nên không lo. Tôi cảm ơn cô ta rối rít, hẹn nếu có duyên sẽ gặp lại trên đường.
Selfie chớp nhoáng với cô gái tóc vànಌg người Canada. Cũng nhờ cô ta thông dịch giúp mà tôi mới vào được Larung Gar.
Tôi và anh tour guide hẹn nhau tám giờ tối ở khách sạn. Tôi khệ nệ khuân hành lý xuống. Anh ấy vừa tới, chạy theo là một chiếc xe bảy chỗ nhỏ. Anh ấy xuống xe, ra hiệu bảo tôi💜 chất hành lý lên. Xong xuôi, tôi định lên hàng ghế sau yên vị thì anh ta chỉ hàng cuối cùng, dưới đó có tấm chăn bông to đùng, bảo tôi xuống sau đó nằm, trùm chăn lên người và giữ im lặng. Lúc này tôi đã hiểu ra tình thế của mình, thật sự nguy hiểm vì không biết chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo. Cảnh sát sẽ bắt𒀰 tôi rồi trục xuất khỏi Trung Quốc hay chính cái anh mắt hí da ngăm này sẽ chở tôi đi bán cho bọn buôn nội tạng. Nằm dưới chăn mà tôi cảm thấy sợ hãi, nhưng tiến thoái lưỡng nan rồi, tôi thầm cầu nguyện đấng Dalai Lama rằng hãy cho tôi được vào vùng đất thánh của Ngài. Tôi chỉ biết cầu nguyện.
Xe bắt đầu lăn bánh. Lúc này gần 8 giờ 30 phút tối, mặt trời vừa xuống sau đỉnh đồi, bóng tối kéo tới, không khí lạnh hơn. Tôi nằm cuối xe, đầu tưởng tượng thay cho mắt. Đợi hoài không thấy anh ấy dừng xe lại chỗ nào cả, tức là trót lọt rồi sao? Khoảng 10 phút sau, anh ấy ra hiệu “Ok! Ok!” Tôi lồm cồm bò dậy, lạy tạ ơn trên. “Thoát rồi! Thoát rồi!” Tôi tự nhủ. Chúng tôi bắt đầu giao tiếp như sáo. Anh chàng nói tiếng Hoa còn tôi nói tiếng Anh, tỷ lệ hiểu nhau được khoảng mười phần trăm. Tôi khâm phục tài múa may của cả hai, nhất là đoạn quan trọng nhất, trong hà🦋ng loạt âm tiết anh ấy phát ra tôi nghe được hai từ rất quen. Suy ngẫm một hồi tôi ồ lên: “Thiên táng!” Đúng rồi, “thiên táng” là từ Hán Việt, tiếng Hoa cũng đọc y chang như vậy. Tôi liền gật đầu lia🎐 lịa.
La🌜rung Gar là một học viện nằm trong thung lũng, được thành lập từ năm 1980. Theo khảo sát năm 2015, tổng dân số ở đây vào khoảng 40.000 tăng, ni. Các tăng, ni tu học ở đây ở tách biệt theo giới tính và độ tuổi. Nhà ở chia theo khu dành cho nam v﷽à nữ.
Một ngày của tôi ở Larung Gar bắt đầu từ năm giờ sáng. Tôi tranh thủ dậy thật sớm để ra đường. Khách sạn nơi tôi ở (theo tôi biết chỉ có khoảng ba khách sạn cho cả học viện rộng lớn) nằm trên đỉnh một ngọn đồi. Kéo rèm cửa nhìn xuống, tôi thấy Larung mờ ảo trong sương sớm♎. Nhiều mái nhà khói bếp bốc lên nghi ngút. Không gian rất yên tĩnh. Tôi bước từng bước thật chậm xuống bậc thang, sử dụng các giác quan hết mức có thể.
Từ những ngõ hẻm, các tăng, ni bắt đầu ra khỏi nhà, đi xuống quảng trường trung tâm. Đa phần họ là người Tạng bản địa, còn lại là người Hoa đến từ Đài Loan, Hong Kong, Singapore và Malaysia đến tu học. Người ở đây ai cũng có nước da trắng🥃 hồng, mắt một mí, gò má ửng lên hai vệt đỏ vì không khí lạnh trông thật đẹp. Tôi theo họ tha thẩn theo bậc thang xuống quảng trường. Dưới này mọi người bắt đầu tập trung đông đúc. Người dân sống gần đó mang hàng hóa đến trao đổi, mua bán. Người ta mua nhiều nhất là sữa tươi, loại sữa bò Yak phổ biến ở vùng Tạng. Mỗi người đều cầm một vài chai sữa trên tay, rồi họ mua thêm bánh bao hoặc các thực phẩm khác cho cả ngày. Không khí nhộn nhịp như khu chợ vùng cao tôi từng đến ở Tây Bắc nước mình. Sau khoảng thời gian ấy, tăng, ni quay về lớp học. Ở đây người ta giảng dạy bằng tiếng Tạng lẫn tiếng Hoa.
Cuộc sống mỗi 🏅ngày của Phật tử ở đây là như thế. Mọi người không được sử dụng ti vi nhưng điện thoại thông minh thì được cho phép. Tôi có gặp hai vị tăng còn rất trẻ và hoạt bát. Họ bắt chuyện với tôi vì thấy tôi đeo máy ảnh to trước ngực. Một trong hai anh này rất thích chụp ảnh. Anh ta hỏi mượn chiếc máy ảnh để chụp thử, nhờ tôi làm mẫu để bấm vài tấm thử xem máy của tôi chụp có khác gì chiếc điện thoại mà anh ta đang dùng hay không. Bấm xong vài tấm, anh ta gật gù ra vẻ thích thú, còn hỏi xem tôi mua cái máy hết bao nhiêu tiền. Tôi cũng tranh thủ hỏi đường leo lên ngọn đồi nơi có view đẹp nhất để chụp cả thung lũng. Anh ta chỉ đường và không quên dặn nên quay lại tầm bốn hay năm giờ chiều vì lúc đó ánh sáng đẹp nhất trong ngày. Tôi cảm ơn và tạm biệt, tiếp tục hành trình lang thang trong thung lũng.
Phần một, phần hai, phần ba, phần bốn, còn tiếp...
(Trích sách Bụi đường tuổi trẻ, tác giả Tâm Bùi, NXB Kim Đồng)